Làm người ở đời là chấp nhận thân phận cám dỗ. Con người vừa mang trong mình khát vọng vươn tới Tuyệt Đối, vừa thấy mình luôn bị một mãnh lực kéo trì, nên đời người lúc nào cũng phải chiến đấu giằng co, chỉ một chút lơi lỏng yếu mềm là sa ngã. Con người cao cả khi thắng được cám dỗ trong ngoài. Lúc buông theo cái tôi dễ dãi tầm thường, tôi chẳng là tôi. Chỉ khi tôi vượt qua tôi, tôi mới thật là mình. Tôi chỉ là tôi khi tôi vươn tới Chân, Thiện, Mỹ. Trong mùa Chay, ta hãy để Thánh Thần dẫn vào hoang địa. Hãy cùng với Đức Giêsu sống trong cô tịch, cầu nguyện và ăn chay, để có khả năng nhận ra các cơn cám dỗ quen thuộc. Biết mình bị cám dỗ thật là một ơn, vì ma quỷ chẳng phải là một con vật có đuôi lộ liễu. Những cám dỗ của Đức Giêsu cũng là của tôi hôm nay. Cám dỗ đầu tiên đánh thẳng vào điểm yếu của Ngài. Sau một thời gian dài nhịn ăn, Ngài thấy đói. Cái đói làm tê liệt, và đụng đến bản năng sinh tồn. Điều duy nhất cần đối với người đói là tấm bánh. Đức Giêsu đã thắng được cơn cám dỗ này. Ngài không phủ nhận sự cần thiết của vật chất, nhưng con người không chỉ sống nhờ cơm bánh. Lợi nhuận trong kinh tế là điều quan trọng, nhưng không được quên các giá trị văn hoá, luân lý, tôn giáo… Lắm khi cái đói vật chất vẫn chi phối chúng ta. Người ta dễ hiểu sai câu: “Có thực mới vực được đạo.” Chúng ta vẫn bị cồn cào bởi những thèm thuồng: chính đáng và không chính đáng, cá nhân và tập thể, nhưng đừng để mình thoả mãn cơn đói bằng mọi giá. Cám dỗ thứ hai là một cám dỗ thô bạo và hấp dẫn: bái lạy ma quỷ để được quyền lực và vinh quang. Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão này. Bao đế quốc, bao nhà độc tài đã trôi đi trong dòng lịch sử. Đức Giêsu chẳng muốn nhận quyền từ ai khác ngoài Cha. Chỉ Cha mới là Đấng duy nhất để Ngài thờ phụng. Cơn cám dỗ thứ ba có vẻ đạo đức, kỳ thực lại là dấu hiệu của sự thiếu lòng tin. Tôi đưa mình vào tình huống hiểm nghèo, để bắt Chúa hành động. Nhảy xuống từ nóc Đền Thờ mà không chết, quả là ngoạn mục! Chúng ta vẫn thích Chúa làm chuyện ngoạn mục cho đời ta. Chúng ta không thích sống trong lòng tin êm ả, như đứa con biết rõ Cha thương mình, không đòi kiểm chứng.
Tiền bạc, của cải, sắc đẹp, khoái lạc, bằng cấp, tự do, quyền lực, uy tín, danh dự, chủng tộc, khoa học, kỹ thuật: tất cả những giá trị trên đều đáng quý. Nhưng nếu tôi tôn chúng lên hàng Tuyệt Đối viết hoa, và thờ chúng như một ngẫu tượng, thì tôi và thế giới sẽ như kim tự tháp lật ngược. Ước gì Chúa giúp tôi tự cởi trói mình mỗi ngày, để tôi càng lúc càng tự do đến gần Đấng Tuyệt Đối.
Có nhiều cách để nhận biết sự thật về một người. Chúng ta có thể bị hấp dẫn bởi những
lời giảng hùng hồn. Chúng ta cũng có thể bị đánh lừa bởi thái độ khôn khéo giả tạo. Đức
Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn để nhận ra con người thật: “Xem quả thì biết cây” (c.
44). Quả ở đây là đời sống thực sự của người đó, là những việc họ làm. Nếu nhìn kỹ
công việc của một người, chúng ta có cơ may biết họ là ai. Đức Giêsu nói lên một luật
tự nhiên của cây cỏ. Cây tốt sẽ sinh trái tốt, cây bị sâu sẽ sinh ra trái không ngon. Người
công chính được nhận biết qua đời sống tốt lành của họ, qua những thử thách họ đã vượt
qua, qua những hy sinh họ dâng hiến. Người bất chính sẽ lộ ra qua đời sống xấu xa. Đời
sống và hành động của một người phản ánh con người thật của họ. Bụi gai không sinh
được trái vả, bụi rậm không cho được trái nho. Bụi gai và bụi rậm chẳng thể nào sinh
hoa trái tốt đẹp. Đời sống là tiêu chuẩn để nhận ra người môn đệ thật của Đức Giêsu.
Không phải chỉ là tuyên xưng đức tin vào Thầy bằng cách kêu lên: “Lạy Chúa! lạy
Chúa!” Vấn đề là làm điều Thầy dạy (c. 46). Đức Giêsu đặt câu hỏi tại sao đầy ngạc
nhiên với các môn đệ: Tại sao tin vào Thầy mà lại không sống điều Thầy truyền dạy?
Kitô hữu chân chính là người đến với Chúa Giêsu, lắng nghe những lời của Ngài và thi
hành những lời ấy (c. 47). Nghe thôi thì chưa đủ. Lời của Chúa Giêsu phải thấm nhuần
vào đời sống của ta, chi phối mọi hành động, quyết định và lựa chọn. Đức Giêsu kết thúc
Bài Giảng của mình bằng dụ ngôn về hai người xây nhà. Nhiều người đã nghe Bài Giảng
này, đã cảm thấy hay, nhưng có bao nhiêu người sẽ thực hành những giáo huấn trong
đó? Người thực hành Lời Chúa được ví như người xây nhà có nền vững chắc. Còn người
không thực hành thì giống như người làm nhà không nền. Bề ngoài có vẻ hai căn nhà
không khác nhau. Chỉ khi nước lụt dâng lên, và dòng nước ùa vào nhà, mới thấy sự khác
biệt. Một căn đứng vững vì có nền tử tế, căn kia bị sụp đổ tan tành. Chúng ta thích xây
nhà cao, nhưng lại ít để ý tới nền móng. Chúng ta đã được nghe quá nhiều đoạn Lời
Chúa, nhưng vẫn chỉ dừng lại ở việc suy niệm, cầu nguyện. Lời Chúa chưa thực sự bám
rễ trong hành động và cuộc sống, vì điều đó đòi một sự trả giá mà chúng ta muốn quay
lưng. Chính vì thế căn nhà tâm linh của chúng ta vẫn không vững. Xin Chúa cho chúng
ta can đảm để làm lại nền cho căn nhà đời ta.
Khi đọc lời nhắn nhủ trên đây của Đức Giêsu, chúng ta thường thấy đó là chuyện không thể làm nổi, hay nếu làm được, ắt sẽ sinh ra những hậu quả tồi tệ. Chắc chắn Đức Giêsu không dạy ta bao che cho kẻ ác, hay đòi hủy bỏ luật hình sự để phạt các phạm nhân. Ngài không cổ vũ việc ăn xin khi nói: “Ai xin, con hãy cho.” Ngài cũng không biến chúng ta thành người bạc nhược. Bài Tin Mừng hôm nay là một viên ngọc, vì nó cho thấy nét đặc trưng của người Kitô hữu. Nó vén mở một lý tưởng mà ta phải vươn tới. Chúng ta cần vượt lên trên nghĩa đen của mặt chữ để cảm được tinh thần mà Chúa muốn ta sống. Không sống lời Ngài, ta vẫn là kẻ đứng ngoài Kitô giáo. “Hãy yêu kẻ thù”: câu này được nhắc lại hai lần. Theo bài Tin Mừng này thì kẻ thù của tôi là ai? Đó là kẻ ghét tôi, kẻ nguyền rủa tôi và vu khống. Đó là kẻ tát vào mặt tôi và đoạt áo ngoài của tôi. Như thế kẻ thù tôi chẳng đâu xa, ngày ngày tôi vẫn gặp. Họ là những người hay làm phiền và lợi dụng tôi, là những kẻ xúc phạm đến danh dự và quyền lợi của tôi. Họ là những người tự nhiên tôi không ưa, hay không ưa tôi. Đức Giêsu không đòi tôi yêu kẻ thù như yêu người thân: về mặt tình cảm, chuyện đó khó thực hiện. Nhưng Ngài mời tôi yêu bằng hành động. Yêu là làm ơn, là chúc lành, là cho vay. Yêu là cầu nguyện điều lành cho kẻ thù (cc. 27-28). Khi làm điều tốt cho kẻ thù, tôi được giải phóng khỏi cái tôi ăn miếng trả miếng, và nhờ đó chính kẻ thù tôi cũng có thể được giải phóng khỏi cái tôi ích kỷ của họ. Khi yêu kẻ thù bằng những hành động tử tế, tôi không còn coi họ là kẻ thù của tôi nữa. Dần dần, tình cảm của tôi đối với họ cũng biến đổi. Cần can đảm biết bao khi chào hỏi, bắt tay một người làm tôi vô cùng đau khổ. Đó chẳng phải là một hành động giả hình, nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên. Đó chẳng phải là một hành vi của kẻ yếu, nhưng là dấu hiệu của tính quả cảm anh hùng. Kitô hữu được mời gọi vượt lên trên cái tự nhiên. Suy nghĩ tự nhiên, tình cảm tự nhiên, phản ứng tự nhiên… Phải ra khỏi cái tự nhiên, thường tình, mới vào được thế giới siêu nhiên, thế giới của những người con, sống nhân hậu như Cha. Sống nhân hậu như Cha là trở nên hoàn thiện. Thế giới văn minh không chỉ nhờ tiến bộ của khoa học, nhưng chủ yếu nhờ những chiến thắng trên lòng ích kỷ của từng người cũng như của mọi tập thể lớn nhỏ. Trái đất chỉ tồn tại nhờ tha thứ yêu thương. Kitô giáo chỉ sống còn nhờ yêu thương tha thứ.
Khi đọc lời nhắn nhủ trên đây của Đức Giêsu, chúng ta thường thấy đó là chuyện không thể làm nổi, hay nếu làm được, ắt sẽ sinh ra những hậu quả tồi tệ. Chắc chắn Đức Giêsu không dạy ta bao che cho kẻ ác, hay đòi hủy bỏ luật hình sự để phạt các phạm nhân. Ngài không cổ vũ việc ăn xin khi nói: “Ai xin, con hãy cho.” Ngài cũng không biến chúng ta thành người bạc nhược. Bài Tin Mừng hôm nay là một viên ngọc, vì nó cho thấy nét đặc trưng của người Kitô hữu. Nó vén mở một lý tưởng mà ta phải vươn tới. Chúng ta cần vượt lên trên nghĩa đen của mặt chữ để cảm được tinh thần mà Chúa muốn ta sống. Không sống lời Ngài, ta vẫn là kẻ đứng ngoài Kitô giáo. “Hãy yêu kẻ thù”: câu này được nhắc lại hai lần. Theo bài Tin Mừng này thì kẻ thù của tôi là ai? Đó là kẻ ghét tôi, kẻ nguyền rủa tôi và vu khống. Đó là kẻ tát vào mặt tôi và đoạt áo ngoài của tôi. Như thế kẻ thù tôi chẳng đâu xa, ngày ngày tôi vẫn gặp. Họ là những người hay làm phiền và lợi dụng tôi, là những kẻ xúc phạm đến danh dự và quyền lợi của tôi. Họ là những người tự nhiên tôi không ưa, hay không ưa tôi. Đức Giêsu không đòi tôi yêu kẻ thù như yêu người thân: về mặt tình cảm, chuyện đó khó thực hiện. Nhưng Ngài mời tôi yêu bằng hành động. Yêu là làm ơn, là chúc lành, là cho vay. Yêu là cầu nguyện điều lành cho kẻ thù (cc. 27-28). Khi làm điều tốt cho kẻ thù, tôi được giải phóng khỏi cái tôi ăn miếng trả miếng, và nhờ đó chính kẻ thù tôi cũng có thể được giải phóng khỏi cái tôi ích kỷ của họ. Khi yêu kẻ thù bằng những hành động tử tế, tôi không còn coi họ là kẻ thù của tôi nữa. Dần dần, tình cảm của tôi đối với họ cũng biến đổi. Cần can đảm biết bao khi chào hỏi, bắt tay một người làm tôi vô cùng đau khổ. Đó chẳng phải là một hành động giả hình, nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên. Đó chẳng phải là một hành vi của kẻ yếu, nhưng là dấu hiệu của tính quả cảm anh hùng. Kitô hữu được mời gọi vượt lên trên cái tự nhiên. Suy nghĩ tự nhiên, tình cảm tự nhiên, phản ứng tự nhiên… Phải ra khỏi cái tự nhiên, thường tình, mới vào được thế giới siêu nhiên, thế giới của những người con, sống nhân hậu như Cha. Sống nhân hậu như Cha là trở nên hoàn thiện. Thế giới văn minh không chỉ nhờ tiến bộ của khoa học, nhưng chủ yếu nhờ những chiến thắng trên lòng ích kỷ của từng người cũng như của mọi tập thể lớn nhỏ. Trái đất chỉ tồn tại nhờ tha thứ yêu thương. Kitô giáo chỉ sống còn nhờ yêu thương tha thứ.
Đức Giêsu được mọi người biết đến là một người nghèo. Nghèo từ khi sinh ra đến lúc từ giã thế gian để về với Chúa Cha. Chính Đức Giêsu đã ví cuộc đời của mình như: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”. Lúc sinh thời, nhất là trong thời gian loan báo Tin Mừng, từ lối sống đến hành động, Ngài luôn quan tâm đến tận cùng kiếp sống con người, nhất là những người khốn khó, bệnh hoạn, tật nguyền. Nên Đức Giêsu không ngần ngại để sống với những người nghèo hèn, cảm thông cho những người tội lỗi và ăn uống với họ, đồng thời, luôn coi họ như những người bạn, sẵn sàng đứng về phía họ để bênh đỡ, chở che. Tinh thần và lối sống đó hôm nay được Đức Giêsu chính thức chúc phúc, và qua đó như một lời mời gọi mọi người đi theo con đường đó để được hạnh phúc: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi”. Phải chăng Đức Giêsu là người cổ hủ, lỗi thời khi cổ súy cho cái nghèo? Hơn nữa, Ngài lại còn mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ cũng phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực? Thưa! Hẳn là không! Qua mối phúc này, Đức Giêsu muốn cho con người được hạnh phúc hoàn toàn, khi không bị chi phối bởi lòng ham muốn tiền bạc, vì nếu mê mẩn với chúng thì sẽ trở thành nô lệ cho tiền bạc. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Đức Giêsu và quy chiếu cuộc đời của ta với Ngài, để vui mừng khi được sống tinh thần nghèo khó như Ngài. Một cách cụ thể, đó là sống hết mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân, nhất là những người bần cùng trong xã hội. Cần phải xác định thật rõ rằng: gia tài đích thực của chúng ta là Thiên Chúa. Giá trị lớn lao nhất là sống cho Thiên Chúa qua cung cách phục vụ tha nhân. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Chúa để mặc lấy tâm tình nghèo khó như Ngài, ngõ hầu chúng con được tự do để dấn thân phục vụ người nghèo cách vô vị lợi như Chúa khi xưa. Amen.
Thế rồi mẻ lưới được kéo lên đầy cá, ngoài sức tưởng tượng, khiến Simon và các bạn kinh
ngạc. Ông thấy xấu hổ, đến sấp mặt dưới chân Ðức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa
con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Đó cũng từng là kinh nghiệm của Isaia khi được kêu gọi: “Khốn
cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi dơ bẩn” (Is 6, 4-6). Nhưng sau khi được than hồng là lửa
tình thương Chúa thanh tẩy, ông đã mau mắn xin vâng, ra đi làm ngôn sứ cho Chúa: “Lạy
Chúa, xin hãy sai con”. Ở đây Chúa cũng trấn an Simon: “Đừng sợ hãi, từ đây các con sẽ là
kẻ chinh phục người ta” (Lc 5,10). Dù Simon yếu đuối và lỗi tội, Chúa vẫn tín nhiệm và
chọn gọi ông. Tình thương Chúa đã xoay hướng cuộc đời ông hoàn toàn. Ngỡ ngàng trước
quyền năng và tình thương của Chúa, Simon và các bạn đã “bỏ mọi sự mà đi theo Ngài”
(Lc 5, 11). Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn hiện diện và xin chúng ta tiếp nhận Ngài trên chiếc
thuyền cuộc đời mình, để cùng với Ngài ra chỗ nước sâu, nơi mà Ngài sẽ cho ta thấy điều
bất ngờ. Ngài mời chúng ta ra khơi, đến với mọi người để chuyển thông cho họ lòng
thương xót của Thiên Chúa. Tính cách này mang lại ý nghĩa mới cho sự hiện diện của
chúng ta, vì một sự hiện diện thường tình có nguy cơ trở nên vật vờ, nín lặng. Theo Chúa
không khó, nhưng khó là ra khỏi mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng nếu còn giữ một lối
sống xa xưa, vẫn còn bám lấy những mộng ước riêng tư, thì ta vẫn còn ở khởi điểm, chưa
thật sự lên đường. Ngoài ra, “lưới cá” có thể dựa vào sức lực và tâm trí của mình, nhưng
“lưới người” còn đòi phải cậy dựa hoàn toàn vào Chúa. Bao lâu chưa nhận ra sự hèn kém
của bản thân, chưa cảm nghiệm được tình yêu và quyền năng Chúa, thì chưa có sự vâng
phục tuyệt đối, nên cũng chưa thể ra đi trong tự do và khó nghèo, để thành người môn đệ
đích thực. Cần để Chúa đào luyện mình trong mọi hoàn cảnh, qua từng giai đoạn, với từng
công việc, trong từng biến cố, ta mới thấy an vui và phấn khởi trên bước đường theo Chúa.
Thành công hay thất bại không quan trọng, đó chỉ là những đánh giá bên ngoài. Có khi thất
bại lại cần thiết cho ta trong công việc tông đồ. Điều quan trọng là bước theo Đức Giêsu
trên mọi nẻo đường, bất chấp khó khăn và cả những yếu đuối của mình, để Chúa làm nên
những điều kỳ diệu cho con người hôm nay.
Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu được Đức Maria và Thánh Giuse đem lên đền
thờ Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa. Tại nơi đây, qua lời của ông Simeon –
một người đạo đức và được đầy ơn Thánh Thần, Chúa Giêsu đã tỏ mình cho muôn dân
biết Người là Đấng cứu độ, là ánh sáng muôn dân. Tuy nhiên, chính Người lại trở nên
“duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hoặc đứng lên” (Lc 2, 33). Đã có lời tiên
tri Isaia loan báo từ xa xưa về Đấng Messia: “Người sẽ là một thánh điện, và một hòn
đá làm cho vấp, một tảng đá làm cho sẩy chân đối với hai nhà Israel, một dò lưới và
một cạm bẫy đối với người dân Giêrusalem. Nhiều người sẽ vì đó mà sẩy chân, té ngã,
nát tan, sẽ mắc bẫy và bị bắt” (Is 8, 14-15). Nhìn vào cuộc đời rao giảng của Đức Giêsu
và đặc biệt nơi cuộc khổ nạn của Người, những lời tiên báo của ông Simeon và của tiên
tri Isaia đã trở thành hiện thực: có nhiều người Israel tin Chúa nhưng một số đông đã
chống đối và muốn Người chết trên thập giá. Hình ảnh một Đấng Messia chịu đóng
đinh vẫn còn là một sự ô nhục đối với nhiều người do thái nhưng Thiên Chúa đã muốn
dùng sự điên rồ này để cứu những người tin (x. 1Cor 1, 21-23). Như thế, những người
Israel, trước Đức Giêsu Kitô, họ cần phải có quyết định cho chính mình. Người nào tin
và theo Chúa, sẽ được cứu độ; còn ai chống đối Người, sẽ vấp ngã. Giờ đây, dân Israel
sẽ được cứu không phải vì họ là dân riêng của Thiên Chúa mà bởi vì họ đã chọn Đức
Giêsu. Chỉ có ai chọn Người, Con Thiên Chúa, mới thực sự thuộc về dân Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang đặt mỗi người chúng ta đứng trước sự lựa chọn:
thuộc về Người hay không. Chúa “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6), nhưng
chúng ta chấp nhận hay từ chối Người, câu trả lời thuộc về sự tự do của mỗi chúng ta.
Mỗi chúng ta hãy cầu nguyện, suy tư để nhìn lại những gì Chúa đã thực hiện cho chúng
ta trong cuộc sống hiện tại, từ đó chúng ta có thể đưa ra quyết định cuối cùng cho chính
mình. Nguyện xin Chúa ban ơn và soi sáng cho lựa chọn quan trọng này của chúng ta.
Amen.
Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu được Đức Maria và Thánh Giuse đem lên đền thờ Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa. Tại nơi đây, qua lời của ông Simeon – một người đạo đức và được đầy ơn Thánh Thần, Chúa Giêsu đã tỏ mình cho muôn dân biết Người là Đấng cứu độ, là ánh sáng muôn dân. Tuy nhiên, chính Người lại trở nên “duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hoặc đứng lên” (Lc 2, 33). Đã có lời tiên tri Isaia loan báo từ xa xưa về Đấng Messia: “Người sẽ là một thánh điện, và một hòn đá làm cho vấp, một tảng đá làm cho sẩy chân đối với hai nhà Israel, một dò lưới và một cạm bẫy đối với người dân Giêrusalem. Nhiều người sẽ vì đó mà sẩy chân, té ngã, nát tan, sẽ mắc bẫy và bị bắt” (Is 8, 14-15). Nhìn vào cuộc đời rao giảng của Đức Giêsu và đặc biệt nơi cuộc khổ nạn của Người, những lời tiên báo của ông Simeon và của tiên tri Isaia đã trở thành hiện thực: có nhiều người Israel tin Chúa nhưng một số đông đã chống đối và muốn Người chết trên thập giá. Hình ảnh một Đấng Messia chịu đóng đinh vẫn còn là một sự ô nhục đối với nhiều người do thái nhưng Thiên Chúa đã muốn dùng sự điên rồ này để cứu những người tin (x. 1Cor 1, 21-23). Như thế, những người Israel, trước Đức Giêsu Kitô, họ cần phải có quyết định cho chính mình. Người nào tin và theo Chúa, sẽ được cứu độ; còn ai chống đối Người, sẽ vấp ngã. Giờ đây, dân Israel sẽ được cứu không phải vì họ là dân riêng của Thiên Chúa mà bởi vì họ đã chọn Đức Giêsu. Chỉ có ai chọn Người, Con Thiên Chúa, mới thực sự thuộc về dân Thiên Chúa. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang đặt mỗi người chúng ta đứng trước sự lựa chọn: thuộc về Người hay không. Chúa “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6), nhưng chúng ta chấp nhận hay từ chối Người, câu trả lời thuộc về sự tự do của mỗi chúng ta. Mỗi chúng ta hãy cầu nguyện, suy tư để nhìn lại những gì Chúa đã thực hiện cho chúng ta trong cuộc sống hiện tại, từ đó chúng ta có thể đưa ra quyết định cuối cùng cho chính mình. Nguyện xin Chúa ban ơn và soi sáng cho lựa chọn quan trọng này của chúng ta. Amen.
Tại Hội đường Nagiarét, sau khi đọc đoạn trích sách ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu tuyên bố: Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Những người đồng hương đã sửng sốt ngạc nhiên trước lời tuyên bố này, vì Chúa Giêsu khẳng định Người là Đấng được xức dầu và được Chúa Cha sai đến trần gian để loan báo Tin Mừng, băng bó những vết thương tinh thần cũng như thể xác của con người. Những việc Chúa làm đã chứng minh lời khẳng định đó. Các tác giả Phúc âm đều kể với chúng ta, Chúa Giêsu miệt mài lên đường loan báo Nước Trời và kêu gọi mọi người sám hối. Người chứng minh: những gì các ngôn sứ đã tiên báo về Người đã và đang được thực hiện. Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người tin Chúa được gọi là “Kitô hữu”. Kitô hữu là người được xức dầu. Nhờ được xức dầu mà chúng ta nên giống Chúa Giêsu. Lý tưởng của cuộc sống người tín hữu là nên giống Chúa Giêsu trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Càng nên giống Chúa Giêsu bao nhiêu, chúng ta càng thánh thiện bấy nhiêu. Nên giống Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi cộng tác với Người để lên đường loan Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn thương đau bất hạnh, tức là xoa dịu, đồng cảm và chia sẻ với anh chị em chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Xuân đang đến gần. Mỗi dịp tết, chúng ta có thói quen nhận lộc Lời Chúa. Việc rút thăm để nhận Lời Chúa không phải để thử vận may rủi như người lương dân vẫn làm vào dịp Tết. Đón nhận Lời Chúa vào ngày đầu năm để suy niệm và chuyên tâm thực hành Lời ấy trong suốt năm. Bởi lẽ “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta một mùa xuân an bình, thánh thiện và chuyên tâm thực thi thánh ý Ngài.
1. Không phải do bởi sự tín trung, hay bởi sáng kiến của dân Do Thái mà Thiên Chúa thiết lập giao ước Phu Thê với con người. Nhưng đây là do bởi tình yêu nhưng không, lòng quảng đại của Thiên Chúa cũng như từ ý định yêu thương của Người. Người muốn đến với chúng ta bằng một giao kết tình yêu hôn nhân, không phải để ràng buộc chúng ta trong bộ khung luật lệ, nhưng chính yếu là để yêu và được yêu nhiều hơn trong một bộ khung mới là tình yêu. Tôi cảm nghiệm điều gì trước mối tình của Thiên Chúa?
2. Đã có một thời trong Giáo hội, các ơn ban được xem như chỉ dành riêng cho một số người, một số phẩm trật nhất định. Đoạn trích thư Côrintô đã khẳng định cho chúng ta điều ngược lại. Tất cả mọi người họp thành một cộng đoàn, một thân thể, một Giáo hội là Hiền thê của Chúa. Vì thế mọi chi thể đều lãnh nhận được những ơn ban từ Thiên Chúa, tuy có khác nhau trong vai trò của từng người. Vậy với tôi, đâu là những ơn ban mà Thiên Chúa đã yêu thương dành cho tôi? Đâu là những ơn ban mà Thiên Chúa đã yêu thương dành cho những người anh chị em của tôi?
3. Nhờ rượu mới, nhờ sự hiện diện của Đức Maria, và nhất là nhờ Đức Giêsu, bữa tiệc cưới con người, từ sự u sầu vì hết rượu và có nguy cơ thiếu vắng niềm vui, giờ đã trở thành bữa tiệc đầy niềm vui hoan lạc. Vậy trong năm đồng hành với những gia đình gặp khó khăn, hình ảnh biểu trưng của tiệc cưới Cana có thể là một ý hướng mục vụ cho mỗi người chúng ta?
Khi Gioan đang làm phép rửa cho dân chúng để giúp họ sám hối và cầu xin ơn tha
tội. Chúa Giêsu đã hòa mình vào đám đông trong cùng dòng sông Giođan, với những
con người có tội để sám hối thay cho loài người đang cần sám hối để được tha thứ.
Thánh Ghê-gô-ri-ô, giám mục Na-di-en cho biết: “Có thể là Chúa muốn thánh hoá
kẻ sắp làm phép rửa cho Chúa, nhưng chắc chắn để chôn vùi trọn vẹn con người
Ađam cũ trong dòng nước. Thật vậy, trước khi thanh tẩy ta và để thanh tẩy ta, Chúa
thánh hoá sông Giođan; vì Người vừa là thần khí vừa là xác phàm, nên Người cũng
muốn nhờ Thần Khí và nước để đưa chúng ta vào đạo”. Nên dù Gioan làm phép rửa,
ông cũng chỉ là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể,
người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài
thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong
lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện.
Quả thật, Gioan biết rằng mình sẽ được thanh tẩy bằng cuộc tử đạo. (Trích bài giảng
của thánh -gô-ri-ô, giám mục Na-di-en). Thánh Phêrô Kim Ngôn giải thích rằng, khi
Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì: “Tôi tớ đóng vai chủ, con người đóng vai
Thiên Chúa, ông Gioan đóng vai Đức Kitô; ông đóng vai đó để lãnh ơn thứ tha chứ
không phải để ban phát”. Nên Gioan giảng: “Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước,
nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần” (Mc 1, 8). Đây là phép lạ vĩ
đại đã xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế chịu phép rửa; phép lạ này là khúc dạo đầu cho
những gì sẽ xảy ra. Đây không phải là Thiên Đàng khi xưa đóng lại vì tội của Ađam
nay mở ra, mà chính trời mở ra: “Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra,
thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình” (Mc 1,10). Đó là lý do tại
sao Chúa Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Hành trình Đức tin của người tín hữu chính là cuộc tìm kiếm và gặp gỡ với Chúa. Đây
là một hành trình lâu dài, liên lỉ và có nhiều chướng ngại. Để theo Chúa và trung tín
với Ngài, chúng ta luôn phải can đảm vượt qua những chướng ngại đó. Như những vận
động viên chuyên tâm khổ luyện để đạt được vòng nguyệt quế dành cho người chiến
thắng, người Kitô hữu phải luôn chiến đấu trong trận chiến thiêng liêng để thuộc trọn
về Chúa. Ông Gioan dùng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những cố gắng hoàn thiện
bản thân: lấp đầy lũng sâu, bạt thấp núi đồi, nắn thẳng quanh co uẩn khúc. Kinh
nghiệm cho thấy, người ta có thể dễ dàng chiến thắng trong trận chiến với kẻ thù,
nhưng lại ngã gục trước cám dỗ của cái tôi ích kỷ và đầy tham vọng. Cuộc chiến đấu
để thanh luyện chính mình là một cuộc chiến đấu dai dẳng, đòi hỏi nhiều cố gắng hy
sinh. Mùa Vọng vừa mời gọi chúng ta nhìn lại mình, vừa nhắc chúng ta hãy nhận ra sự
hiện diện của Thiên Chúa. Những cố gắng nỗ lực để hoàn thiện bản thân và thực thi
bác ái sẽ giúp chúng ta bạt núi kiêu ngạo, lấp thung lũng hèn nhát. Cuộc sống hôm nay
có nhiều cám dỗ, quá nhiều khuynh hướng khác nhau, lôi kéo chúng ta đi lạc đường.
Những bon chen bận rộn của cuộc đời dễ làm chúng ta đắp những quả đồi, hoặc khoét
sâu khoảng cách đối với anh chị em. Khi can đảm dẹp bỏ mọi chướng ngại trong tâm
hồn, chúng ta sẽ được “nhìn” thấy Chúa và vinh quang của Ngài. Lúc đó, Chúa sẽ là
tất cả của đời sống chúng ta, và chúng ta sẽ chỉ nhìn lên Ngài như định hướng tuyệt
hảo duy nhất của cuộc đời. Lời mời gọi bạt núi san đồi vẫn vang lên hằng năm. Tuy
vậy, nơi đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn, vẫn còn đó những khuyết điểm lỗi lầm.
Trong mối tương quan hằng ngày, người ta vẫn tiếp tục xây những bức tường chia rẽ,
vẫn đào những thung lũng hận thù và xây những núi đồi của kiêu ngạo. Lời Chúa
khích lệ chúng ta không nên thất vọng, vì chúng ta có nguồn trợ lực thiêng liêng đến từ
Đấng Tối cao. Chúa Giêsu đã từ bỏ mọi sự để hủy mình ra không, trở nên một trẻ thơ
nơi hang đá khó nghèo. Người đã trở nên nghèo để chúng ta được giàu có; Người đã
trở nên yếu ớt để chúng ta được mạnh mẽ; Người đã đón nhận thập giá để chúng ta
được vinh quang. Vì thế, ơn gọi của chúng ta là cố gắng “sống cho tinh tuyền, không
làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm, nhờ đó chúng ta mang
lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính”, như thánh Phaolô nhắn nhủ giáo dân
Philiphê (Bài đọc II).
Quan đoạn Tin Mừng, chúng ta ghi nhận một cuộc hỏi cung kỳ lạ trong đó bị cáo lại đặt vấn đề với quan toà và hướng dẫn cả cuộc tranh luận về tước hiệu Vua dân Do Thái. Thực vậy, Chúa Giêsu biết rằng chính dân Do Thái đã tố cáo Người xưng mình là vua. Nếu không có lời tố cáo này, Philatô chẳng bao giờ có ý bắt và kết án Người. Và bây giờ, nếu ông có quan tâm thì cũng chỉ vì khía cạnh chính trị của lời tố cáo này mà thôi, bởi vì ông đại diện cho hoàng đế Rôma, cai trị đất nước Do Thái. Nhưng Chúa Giêsu nói tiếp với quan tổng trấn rằng: Nước Người không thuộc về thế gian này. Đối với người Do Thái cũng như đối với Philatô, danh từ vua chỉ có một ý nghĩa duy nhất là một lãnh tụ chính trị, có vương quốc, có thần dân với bộ máy cai trị và quân đội, để bảo vệ chủ quyền và an ninh cho đất nước. Nếu Chúa là vua theo nghĩa này thì hẳn thần dân của Người đã không để cho Người rơi vào tay họ. Chính họ cũng biết điều đó. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Người đã từ chối ý định của họ là muốn tôn Người làm vua. Chúa là Vua, nhưng Người không cạnh tranh với hoàng đế Rôma vì nước Người không thuộc về thế gian này. Vương quốc của Người được thiết lập ngay trong lễ Vượt qua, khi Người phó mình chịu chết để vâng phục thánh ý Chúa Cha: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta. Đức Kitô thi hành vương quyền của mình bằng cách kéo loài người khỏi sự chết để dẫn đưa họ vào nhà Chúa Cha. Điều nghịch lý là ở chỗ ngay trong cuộc khổ nạn, Đức Kitô mới xưng mình là vua và ngay khi bị treo trên thập giá Người mới chứng tỏ mình thật sự là vua. Trong suốt cuộc xét xử, Philatô đã tỏ ra là một quan toà nghiêng ngửa và yếu đuối. Ông ta biết Chúa Giêsu không có tội gì và muốn tìm cách tha Người, nhưng ông lại sợ áp lực của người Do Thái: Nếu quan tha nó thì quan không phải là bạn hữu của hoàng đế. Thế thì nguy rồi, chức vụ của mình, gia sản của mình và ngay cả mạng sống của mình cũng có thể tiêu ma. Thôi mặc kệ cho sự thật, mặc kệ cho bị cáo phải tử hình. Ta lo cho ta trước đã. Đó là một con người không trung thực và hèn nhát. Dù biết Chúa Giêsu không có tội muốn làm loạn, muốn xưng vương, nhưng Philatô vẫn cứ treo bản án: Giêsu Nadarét, vua dân Do Thái. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám đứng về phía của chân lý của sự thật hay không? Chúng ta có dám chấp nhận những hy sinh, những thiệt thòi để cho Nước Chúa được trị đến hay không?
Đối với một số bạn trẻ, yêu chẳng có gì khó. Yêu là gặp nhau, quen nhau, nhớ nhau.
Yêu là hẹn hò, viết thư, tặng quà sinh nhật. Nhưng dần dần quan niệm về tình yêu trở
nên sâu xa hơn. Các bạn nhận ra yêu là trao hiến bản thân, là hy sinh chính mình để
sống cho người khác. Tình yêu đích thực không dễ như nhiều người lầm tưởng. Vào
ngày tận thế, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu. Một vị kinh sư tốt lành hỏi Đức Giêsu
về điều răn đứng đầu trong số 613 khoản luật. Ngài trích Ngũ Thư để tóm lại trong hai
điều răn chính: yêu Thiên Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình. Tất cả lề
luật cô đọng trong một thái độ là yêu mến.Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc
nệ luật. Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu. “Yêu mến là chu toàn lề
luật” (Rm 13,10). Thánh Âu-tinh phàn nàn là mình đã yêu Chúa quá muộn. Còn chúng
ta lại thấy mình yêu Chúa quá ít và hời hợt. Khi nghe Đức Giêsu nhắc lại lời kinh của
người Do Thái: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với trọn cả
trái tim ngươi, với trọn cả linh hồn ngươi, với trọn cả trí khôn ngươi, với trọn cả sức
lực ngươi...”, ta mới thấy đòi hỏi quyết liệt của Thiên Chúa. Ngài muốn ta yêu Ngài
bằng tất cả con người mình. Cụm từ “với trọn cả” được lặp lại nhiều lần như nhắc ta
chẳng nên giữ điều gì lại. Sống điều răn thứ nhất là đặt Chúa lên trên hết, là dành ưu
tiên một cho Chúa giữa những ưu tiên. Coi Chúa là tất cả, mãn nguyện vì có Chúa.
Dành cho Chúa tất cả, để Chúa chiếm trọn mình. Điều răn thứ hai bắt nguồn từ điều
răn thứ nhất: yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận là mọi người chẳng
trừ ai. Chỉ trong Chúa tôi mới có thể yêu thương đến vô cùng. Trong Chúa, tôi nhận ra
tha nhân là anh em, con một Cha, là hình ảnh của Đức Kitô đang cần tôi giúp đỡ.
Trong Chúa, tôi cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi,
một phạm nhân hay người mất trí. Tình yêu thực sự với Thiên Chúa đưa tôi về với anh
em. Tình yêu anh em đòi tôi gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu
tiếp tục hiến trao. Đó là nhịp đập bình thường của trái tim người Kitô hữu, cứ đong
đưa giữa hai tình yêu. Hay đúng hơn chỉ có một tình yêu: tôi yêu tha nhân trong Chúa
và tôi yêu Chúa nơi tha nhân. Đức Giêsu đã sống đến cùng hai điều răn Ngài dạy. Ngài
sống để yêu và chết vì yêu. Tình yêu của Ngài là lễ toàn thiêu và hy tế.
Mỗi tối tôi lại xét mình về tình yêu để thấy mình còn yêu quá ít.
Hôm nay, Chúa Giêsu cho các ông một bài học dài về tư cách của người làm lớn, người có
quyền và nhấn mạnh đến sự phục vụ cần phải có đối với các môn đệ Chúa. Chúng ta tiếp tục
cùng với các môn đệ đi theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, và chuyện “ai là người lớn nhất”
trong họ vẫn đang được bàn tán, cho dù Chúa Giêsu nói cho họ biết là trong số họ, người lớn
nhất là người sẵn sàng làm “tôi tớ cho anh em”.
Con người và thế giới hiện đại của chúng ta đang thay đổi nhanh chóng về nhiều mặt: văn hóa, xã hội, kỹ thuật, cũng như thông tin điện toán toàn cầu… Sự thay đổi ấy tác động trực tiếp đến lễ nghĩa gia phong, tôn giáo, nhất là các gia đình, đặc biết các cặp hôn nhân trẻ. Hơn bao giờ hết, gia đình trên thế giới đang bị đe dọa đến tận nền tảng như: nạn ly dị lan tràn, chấp nhận sống chung mà không hôn phối, khước từ con cái hoặc hủy diệt con cái từ trong trứng nước. Kết hôn giữa người cùng giới tính, một số quốc gia chấp thuận. Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô XVI nhận định rằng, việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới ở nhiều quốc gia là “sự bóp méo lương tâm” con người, là “mâu thuẫn với tất cả các nền văn hóa của nhân loại đã tiếp nối nhau cho đến nay, và do đó biểu thị một cuộc cách mạng văn hóa chống đối toàn bộ truyền thống của nhân loại cho đến tận ngày nay”. Để duy trì nòi giống phải là sự kết hợp giữa người nam và người nữ từ nguyên thủy cho đến hôm nay. Đức Bênêđíctô XVI lưu ý rằng dường như ngày nay con người không còn tin tưởng vào việc sinh sản từ quan hệ luyến ái phu phụ “mà là lên kế hoạch và sản sinh ra con người một cách hợp lý”. Do đó, con người không còn là một ân sủng để đón nhận mà là “một sản phẩm do chúng ta lập kế hoạch”. Ngài đặt câu hỏi: Con người là ai? Liệu có một Đấng Sáng tạo hay không, và phải chăng tất cả chúng ta chỉ là những sản phẩm do chính con người sản xuất ra? Là người tín hữu ai cũng biết: đơn hôn và vĩnh hôn là hai đặc tính trong hôn nhân Công giáo. Đơn hôn nghĩa là hôn nhân chỉ giữa một người nam và một người nữ. Vĩnh hôn có nghĩa là đã kết hôn thành sự và đã hoàn hợp thì hai người bị ràng buộc, phải chung thuỷ với nhau với nhau cho đến chết. Đặc tính vĩnh hôn loại trừ ly dị. Giao ước Hôn nhân bắt đầu bằng lời hứa thuỷ chung cho đến chết. Một Giao ước mang tính Bí tích, lấy Chúa ra mà thề, lấy cộng đoàn Giáo hội ra để làm chứng. Chúng ta hãy cầu xin cho các cặp hôn nhân ngày hôm nay trung thành với giao ước hôn nhân, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào hay gặp gian lao thử thách nào vẫn mãi mãi bền chặt, thủy chung và son sắt. Amen.
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Kẻ “câm và điếc” hoàn toàn
bị tước đoạt hai phương tiện cần thiết này. Lưỡi họ như bị một sợi dây vô hình trói
buộc, tai họ dường như có một cánh cửa khóa chặt. Họ không hiểu được ai và cũng
chẳng ai hiểu được họ. Có thể nói, họ bị tách khỏi thế giới bên ngoài. Hôm nay,
Đức Giêsu chữa cho một người câm điếc. Người phán: “Ép-pha-ta” nghĩa là “Hãy
mở ra ” lập tức tai anh mở ra, lưỡi anh như hết bị trói buộc (x. Mc.6,34-35). Chẳng
ai muốn mình bị điếc, nhưng trong thực tế không thiếu người mắc bệnh này. Chúng
ta bị điếc khi để mình mất khả năng lắng nghe kẻ khác. Chúng ta bị điếc khi chúng
ta nghe người khác nhưng lại cố hiểu theo ý mình. Chúng ta bị điếc khi lắng nghe
mà không nhận thức được đúng sai, hay dở. Vậy điều quan trọng không nằm ở nơi
người nói, mà ở chỗ người nghe suy nghĩ và quyết định ra sao. Nắm được tâm lý
của con người nên hãng bảo hiểm Prudential mới chọn khẩu hiệu: “Luôn luôn lắng
nghe, luôn luôn thấu hiểu”. Vì thế, chỉ nghe bằng tai thôi không đủ, mà phải lắng
nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương, chân thành và quảng đại mới có
thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt.
Hơn nữa, không phải thông tin nào cũng nên nghe. Cần phải chọn lựa những thông
tin bổ ích hữu dụng; không gây phương hại, vẫn đục cho tâm hồn. Cha Mark Link
có viết: “Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai, nhưng luôn
có thể tin vào những gì thấy bằng con tim của mình”.
Cha Murray (Muy-rây) lủi thủi đi trên phố vắng đêm khuya, ngài đang đưa Mình Thánh
cho một bệnh nhân nguy kịch. Tới góc phố, chợt một tên cướp nhảy ra chĩa súng quát:
“Đứng lại, đưa tiền đây!”. Cha Murray mở áo khoác, lấy ví tiền. Tên cướp ngó thấy ngài
mặc áo đen và mang cổ trắng, nhận ra đó là một linh mục, hắn ấp úng nói: “Thưa cha, con
không biết. Con xin lỗi, cha cất tiền đi”. Cha Murray bình tĩnh lại, ngài móc gói thuốc mời
hắn một điều. Nhưng ngài lại ngạc nhiên lần nữa nghe hắn nói: “Cám ơn cha, bây giờ đang
Mùa Chay, con không hút thuốc”. Có những người coi việc giữ luật là quan trọng, còn tình
trạng tâm hồn mình là không đáng kể. Họ thấy cần thiết phải giữ chay, còn có đi ăn trộm,
ăn cướp cũng chả sao. Đó là một sai lầm mà Chúa Giêsu luôn tìm cách sửa đổi. Có thể coi
đây là một trong những khác biệt giữa tâm tình giữ đạo của các Biệt phái và nhóm môn đệ
sống theo Lời Chúa. Các Biệt phái nghiêm chỉnh giữ luật tắm rửa, lau chùi, rửa bình...
không phải vì lý do vệ sinh, nhưng là nghi lễ thanh tẩy. Họ khó chịu, chê trách Chúa và
các môn đệ vì không tuân giữ luật cũ. Dù nhóm môn đệ rất nhiệt thành giữ đạo, nhưng đôi
khi trong nếp sống cũng bị nhiễm lây một vài thói tục mà người Biệt phái cho là phóng
túng. Chúa Giêsu coi những chuyện này là không quan trọng. Chủ yếu là do cõi lòng. Chúa
luôn bảo vệ, bênh vực những kẻ mà nhóm bảo thủ cho là người xấu, người tội lỗi, những
người thu thuế, các cô gái điếm. Chúa tỏ lòng nhân từ và khoan dung với người nghèo khó,
bé mọn... nhất là khi những người này bị xét đoán gắt gay. Một lý do khác nữa là Chúa
Giêsu nghĩ tới một Giáo Hội phổ quát chứ không đóng khung trong dân tộc Do Thái.
Những phong tục, tập quán của Do Thái là tốt, nhưng đến lúc phải mở rộng hơn để đón
nhận mọi nếp sống, mọi nền văn minh trên toàn thế giới. Vậy phải sàng sảy, chọn lọc, chỉ
giữ lại những gì cốt yếu và coi nhẹ những điểm phụ thuộc. Chúa bảo có một số cổ lệ không
do Thiên Chúa mà chỉ do con người. Những cổ lệ đó cần đổi thay, điều chỉnh cho sáng tỏ
tinh thần tôn kính Thiên Chúa và chu toàn bác ái đối với anh em. Nếu không sẽ chỉ đáng
nghe lời quở trách của ngôn sứ Isai: “Dân này tôn thờ ta ngoài môi miệng mà lòng trí ở xa
Ta”. Phải làm sao cho sáng tỏ tinh thần, không bị lu mờ che khuất vì nếp sống bên ngoài.
Phải làm sao cho mọi người, tín đồ cũng như người chưa tin, thấy điều quan trọng là ở tâm
tình, chứ không ở luật lệ, hay lễ nghi thờ tự. Những điều này chỉ có giá trị nếu làm nổi bật
tinh thần bên trong, là việc mến Chúa, yêu người. Lạy Chúa, xin thanh tẩy chúng con để
chúng con biết tôn trọng tinh thần hơn tục lệ, biết nhìn anh em theo hướng nhìn cởi mở của
Chúa.