Bấy giờ, vị thượng tế hỏi các Tông Đồ rằng: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!” Bấy giờ ông Phê-rô và các Tông Đồ khác đáp lại rằng : “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Đức Giê-su đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi ; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người.” Bấy giờ, họ cho gọi các Tông Đồ lại và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giê-su, rồi thả các ông ra. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su.
Đáp ca Tv 29,2 và 4.5-6.11-12a và 13b (Đ. c.2a) Đ. Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt.
1) Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con. Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống.
2) Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo.
3) Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu.
Bài đọc 2Kh 5,11-14
Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.
Tôi là Gio-an, tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. Các vị lớn tiếng hô: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc.” Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!” Bốn Con Vật thưa: “A-men.” Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy. Tung hô Tin Mừng Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Đức Ki-tô nay đã phục sinh, chính Người đã tạo thành vạn vật và xót thương cứu độ loài người. Ha-lê-lui-a. Tin Mừng Ga 21,1-19
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
Khi ấy, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không.” Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: “Chúa đó!” Vừa nghe nói “Chúa đó!”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giê-su bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!” Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Đức Giê-su nói: “Anh em đến mà ăn!” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông ; rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến Thầy.” Đức Giê-su nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” Người lại hỏi: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến Thầy.” Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có thương mến Thầy không?” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có thương mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con thương mến Thầy.” Đức Giê-su bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy.”
Suy Niệm
Bảy môn đệ trở về với nghề xưa, trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò. Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh. Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo: "Tôi đi đánh cá đây." Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại: "Chúng tôi cùng đi với anh." Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm. Ðây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng. Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm, và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại. Tuy nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau. Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ. Nhưng sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền. Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo, nhảy tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa. Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu. Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh. Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt. Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người. Ðây không phải là một nhóm bạn khép kín, nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi. Chính sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới. Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới. "Không có Thầy anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5). Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn. Nhóm bạn được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ, được sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa. Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng. Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông. Cử chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ. Chúng ta thường quên thánh lễ là một bữa ăn. qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài. Chúng ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng. Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể. Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa tập trung nơi thánh lễ. Ðó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh. Hội Thánh cũng là Hội Thánh được lãnh đạo bởi Simon Phêrô. Phêrô tưởng tự mình có thể theo Thầy và chết vì Thầy, nhưng ông đã chối Thầy như lời Thầy tiên báo. Ba lần chối được hàn gắn bởi ba lần tuyên xưng tình yêu: "Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy" Ba lần tuyên xưng tình yêu đi với ba lần giao sứ mạng: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy." Phêrô được chia sẻ sứ vụ mục tử của Thầy chí thánh, cũng là chia sẻ thập giá của người hiến mạng vì đoàn chiên. Hãy theo Thầy để đến nơi anh không muốn đến. Có lẽ bây giờ Phêrô mới thật sự bước theo Thầy.
Biết các môn đệ vất vả suốt đêm trong cái lạnh của nước và gió, Đức Giê-su chuẩn bị sẵn cho các ông một bếp than hồng để sưởi ấm và một bữa ăn để no lòng. Tất cả đã sẵn sàng: “Anh em đến mà ăn”. Bữa ăn gồm bánh và cá, hai yếu tố này xem ra không phù hợp với bàn tiệc Thánh Thể, tuy nhiên biểu thức: “Đức Giê-su cầm lấy bánh và trao cho các môn đệ ăn” rõ ràng là biểu thức của bàn tiệc Thánh Thể. Hơn nữa vào thời Giáo Hội tiên khởi “bánh” và “cá” biểu tượng Thánh Thể, như được thấy trong phép lạ “Bánh và Cá hóa nhiều” được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại như tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể. “Mẻ cá lạ lùng” và "bữa ăn của Chúa” diễn tả hai khía cạnh bất khả phân của thực tại Giáo Hội: hoạt động truyền giáo và bàn tiệc Thánh Thể. Giáo Hội được mời gọi nối tiếp sứ mạng của Đức Giê-su, loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Đây là một công việc đòi hỏi nhiều gian nan vất vả như cuộc đời cứu thế của Đức Giê-su đã cho thấy. Chính vì thế, Chúa Giê-su đã dọn sẵn cho các môn đệ của Ngài bữa ăn của Ngài để sưởi ấm lòng mến của các ông và nuôi dưỡng đức tin kiên vững của các ông trong sứ mạng.
Cuộc đối thoại của Chúa Giê-su Phục Sinh với thánh Phê-rô Sau đó diễn ra một cuộc đối thoại thật cảm động giữa Chúa Giê-su và thánh Phê-rô. Chúa Giê-su long trọng hỏi thánh Phê-rô ba lần cùng một câu hỏi: “Này anh Si-mon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?”, và cả ba lần thánh nhân đều khẳng định là mình yêu mến Thầy. Ngoài ra, có một sắc thái ngữ nghĩa rất tinh tế giữa hai động từ Hy lạp: “agapaô”: diễn tả một tình yêu cho đến mức sẵn sàng chết cho người mình yêu, và “phileô”: diễn tả tình bằng hữu. Trong hai lần đầu, Chúa Giê-su hỏi thánh nhân với động từ “agapaô”, nghĩa là Ngài đòi hỏi thánh nhân yêu mến Ngài đến mức dám chết cho Ngài. Tuy nhiên, cả ba lần thánh nhân điều trả lời cho Thầy với cùng một động từ “phileô”, nghĩa là, từ kinh nghiệm mình đã chối Thầy ba lần, thánh nhân không dám hứa với Thầy rằng thánh nhân yêu mến Thầy theo cùng mức độ tình yêu tận mức mà động từ “agapaô” đòi hỏi, nhưng chỉ theo tầm mức mà động từ “phileô” diễn tả. Vì thế, đến lần thứ ba, một cách tế nhị, Chúa Giê-su hạ mức độ lòng yêu mến của thánh nhân đối với Ngài xuống cho ngang tầm với yêu cầu của thánh nhân khi hỏi thánh nhân với động từ “phileô”. Chính với câu hỏi lần thứ ba này, thánh nhân buồn vì mình không thể đáp trả lòng mến của mình đối với Thầy trên cùng mức độ “agapaô” như Chúa muốn: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”.