Khi ấy, ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en rằng: “Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em. Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em. Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi được nghe tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ nói: ‘Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh!’ Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?”
Đáp ca:Tv 14,2-3a.3bc-4ab.5
Lạy Chúa, ai được vào ngụ trong nhà Chúa?
1. Kẻ nào sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan. 2. Không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã. Coi khinh phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời. 3. Cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay. Phàm ai làm những điều này không hề nao núng chuyển lay bao giờ.
Bài đọc II: Gc 1,17-18.21b-22.27
Bài trích thư của thánh Gia-cô-bê tông đồ.
Anh em thân mến, mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú; nơi Người không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng. Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người. Anh em hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.
Tung hô Tin Mừng:Gc 1,18
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa Cha đã tự ý dùng lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng: Mc 7,1-8a.14-15.21-23
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
Khi ấy, có những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến. Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. Vậy, người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giê-su: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” Người trả lời họ: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”
NIỀM TỰ HÀO CỦA NGƯỜI TIN CHÚA Chúa Nhật XXII Thường Niên – Năm B
Lịch sử dân tộc Do Thái có nhiều điều kỳ diệu. Chiến tranh Do Thái đã nổ ra vào năm 70 sau Công nguyên, hậu quả là Đền thờ bị tàn phá bình địa, người Do Thái phải tản mác khắp nơi. Nhà nước Israel chỉ tuyên bố độc lập và được Liên hiệp quốc công nhận chính thức vào ngày 14-5-1948, tức là sau 19 thế kỷ bị xoá tên trên bản đồ thế giới. Một điều kỳ lạ, 19 thế kỷ tha hương và phân tán, thậm chí bị diệt chủng trong thời Đức Quốc Xã, Đức tin vào Thiên Chúa vẫn tồn tại nơi những người con cháu Abraham. Nơi đâu có người Do Thái, nơi đó có Hội đường và các buổi tập hợp vào ngày Sabát để lắng nghe Lời Chúa và tôn vinh Ngài.
Những gì ông Môisen nói về dân tộc này đã được thực hiện trong suốt bề dày của lịch sử: “Có dân tộc nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?”. Đây là niềm tự hào của mọi thế hệ người Do Thái. Bất kỳ đi đến đâu và trong hoàn cảnh nào, người Do Thái không quên niềm tự hào ấy.
Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người Kitô hữu được tháp nhập vào dân Israen mới, tức là Giáo Hội. Cũng như dân Do Thái và còn hơn thế nữa, Giáo Hội của Chúa Kitô đã hoà nhập vào nền văn hoá của tất cả các quốc gia trên thế giới. Hỏi, có thần linh nào kỳ diệu như Thiên Chúa của chúng ta? Người là Cha chung của gia đình nhân loại, là Đấng hướng dẫn chúng ta trên mọi nẻo đường. Để đền đáp tình thương trời bể của Thiên Chúa, nhưng ai tin vào Ngài phải tuân giữ giáo huấn Ngài truyền dạy. Ông Môisen khuyên nhủ những người Do Thái trong hành trình sa mạc, rằng nếu họ tuân giữ thánh chỉ của Chúa, họ đã được đến Đất hứa. Người Do Thái đã chiếm Đất hứa sau 40 năm, kể từ khi rời Ai Cập. Họ đã chứng kiến những điềm thiêng dấu lạ Thiên Chúa đã làm, trước mặt Pharaon và các dân tộc mà người Do Thái giao tranh trong hành trình này. Mục đích của lề luật là hướng lòng con người về với Thiên Chúa, giúp họ sống thiện lương theo giáo huấn của Ngài. Nhưng nhiều người lại lạm dụng lệ luật theo kiểu “suy bụng ta ra bụng… Chúa”. Họ nghĩ Chúa cũng giống như con người, cũng nhỏ nhen, cũng chấp nhặt, cũng thù oán và nhất là cũng nhận hối lộ, “tốt lễ dễ kêu” giống như nơi con người. Đức Giêsu mong muốn trả lại cho nghi thức thờ phượng ý nghĩa đích thực của nó. Đây chẳng phải là điều gì mới mẻ, mà đã in sâu trong giáo huấn của các ngôn sứ. Chúa Giêsu trích dẫn ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng lại xa ta. Chúng có thờ phượng ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”.
Những người được nêu trên, Chúa lên án họ là đạo đức giả. Trong Phúc Âm, nhiều lần Chúa Giêsu chỉ trích họ nặng lời và ví họ giống như những mồ mả tôi vôi. Với lời giáo huấn của mình, Chúa Giêsu đã đảo ngược quan niệm “thanh sạch và ô uế” của người đương thời. Trong khi những người này chủ trương những gì ở ngoài sẽ gây ô uế cho con người, Chúa Giêsu lại khẳng định, chính bên trong con người là nguồn gốc của sự ô uế và tội lỗi. Quả vậy, con người là nguyên nhân của biết bao tội lỗi từ khởi đầu của lịch sử cho đến ngày nay. Những tham vọng, ích kỷ và mưu mô từ bên trong con người đã gây nên biết bao đau khổ cho bản thân và cho những người xung quanh. Cuộc sống thường ngày của chúng ta đã chứng minh những gì Chúa nói.
Khi phê phán những biệt phái và luật sĩ, Chúa Giêsu mời gọi những ai nghe Người hãy đổi mới quan niệm của mình về việc thờ phượng, để có thể tôn thờ Chúa với tâm hồn ngay thẳng và với thiện chí sống tình bác ái với những người xung quanh. Một thứ thờ phượng môi mép giả hình sẽ biến người ta thành những con rối. Của lễ Chúa muốn, đó chính là tấm lòng chân thành và yêu mến dành cho Ngài, với thiện chí quyết tâm đổi mới cuộc đời.
Biết bao lần chúng ta tham dự các nghi thức phụng vụ mà tâm hồn chúng ta xa Chúa. Có nhiều khi chúng ta giống như những người kinh sư và người biệt phái, chỉ chú trọng đến những nghi thức bề ngoài mà coi nhẹ tâm tình cầu nguyện, là điều cốt lõi để làm thành việc tôn thờ đích thực. Thánh Giacôbê đã khuyên chúng ta: “Hãy khiêm tốn đón nhận Lời được gieo vào lòng chúng ta… Hãy đem Lời ấy ra thực hành chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Bài đọc II). Đối với thánh nhân, lòng đạo đức thật phải sinh ra hoa trái là lòng bác ái và dấn thân phục vụ người nghèo, giúp họ tìm được niềm vui trong cuộc sống.
Trong một xã hội mà tiếng nói của Chúa dễ bị lấn át bởi cơn lốc hưởng thụ, ước chi niềm tự hào của người tin Chúa luôn chiến thắng những đam mê, chia rẽ hận thù. Chính niềm tự hào vì là người Kitô hữu sẽ giúp chúng ta có nghị lực để không ngừng vững bước thăng tiến trong sứ mạng làm chứng cho Chúa giữa dòng đời.
“Là một Kitô hữu không chỉ là tuân giữ các giới răn, nhưng còn có nghĩa là sống trong Đức Kitô, suy nghĩ như Người, hành động như Người, yêu như Người; có nghĩa là để Người làm chủ cuộc đời chúng ta và thay đổi nó, biến đổi nó, để giải thoát nó khỏi bóng tối sự dữ và tội lỗi” (Đức Giáo Hoàng Phanxicô).