Sau những thành công hay thất bại, ta thường ngồi lại gẫm suy: Tôi đã được gì và mất
gì. Đã bao giờ ta bận tâm về cái ta phải có là tình yêu thương? Đây là di chúc của Thầy
Giêsu: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có
lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Tình yêu đích thực luôn làm cho cuộc sống càng tươi
đẹp. Nếu khi nào ta cố gắng yêu nhưng vẫn thấy cuộc sống có vẻ bế tắc, đó là khi tình
yêu của ta chưa tinh tuyền, ta chưa yêu như Thầy Giêsu. Trước khi con Thiên Chúa nhập
thể, con người đã biết đến tình yêu. Con người đã yêu và yêu rất nhiều. Tại sao Thầy
Giêsu gọi điều răn của Ngài là “điều răn mới”? Thầy nhắn nhủ các môn đệ: “Thầy ban
cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Điều răn của Thầy là yêu thương và
phải yêu như Thầy đã yêu thương. Yêu thương theo cách ta muốn không khó nhưng để
yêu như Thầy đã yêu thì phải có ơn Chúa ta mới yêu được. Chiêm ngắm tình yêu Thầy
trong Bữa Tiệc Ly, ta nhận thấy đó là một tình yêu trên mọi tình yêu. Ngài là Thầy và là
Chúa nhưng lại cúi mình rửa chân cho môn đệ. Ngài đã rửa chân cho cả Giuđa là kẻ sẽ
phản bội Ngài. Miếng bánh Ngài trao cho Giuđa như một cử chỉ của lòng yêu thương
mặc dù Thầy Giêsu biết đó là kẻ sẽ bán mình. Có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của Thầy
trong giờ phút này? Thầy đã yêu tất cả, một tình yêu không loại trừ ai, một tình yêu luôn
tôn trọng tự do của người mình yêu thương. Nhân loại đã yêu và lớn lên trong tình yêu.
Sống điều răn của Chúa Giêsu, người môn đệ sẽ trưởng thành, sẽ nên giống Chúa Giêsu.
Tình yêu giúp họ nên đồng hình đồng dạng với Chúa, ở trong vòng tay Chúa, ở trong trái
tim Chúa, người môn đệ sẽ mở rộng vòng tay đón nhận nhau, mở rộng trái tim để yêu
thương nhau và nhìn thấy hạnh phúc của người khác, nhìn nhận chiến thắng của nhau
trong Chúa. Ai cũng muốn được hạnh phúc và hạnh phúc chỉ thật sự đến khi ta dám yêu
như Chúa muốn, một tình yêu quên mình và tự hiến, sẵn sàng trao ban.
Lạy Chúa Giêsu! Xin giúp con mỗi ngày biết chiêm ngắm Chúa chịu đóng đinh, để con
cảm nếm tình yêu dịu ngọt của Chúa, để con được chạm đến trái tim Chúa. Xin Chúa
huấn luyện trái tim con nên giống trái tim Chúa và xin lôi kéo con bước vào con đường
tình yêu của Chúa. Bởi chính nhờ đó mà con hiểu mình hơn và nhận ra Chúa nơi anh chị
em. Amen.
Sau khi đã long trọng mừng lễ Phục Sinh, Phụng vụ Chúa nhật thứ bốn diễn tả Đấng Phục
sinh như một mục tử. Vị mục tử ấy đã quên mình vì chiên, đã hy sinh mạng sống mình để
đàn chiên được cứu rỗi. Tiếp nối giáo huấn của Cựu ước, Chúa Giêsu sử dụng hình ảnh mục
tử và đàn chiên, khi Người khẳng định: “Tôi là Mục tử nhân lành”. Trong tiếng Hy Lạp,
“Mục tử nhân lành” cũng có nghĩa “Mục tử đích thực”. Nơi Đức Giêsu, có đủ những đức
tính tốt của một mục tử, nhất là sự hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Khi Chúa Giêsu bị bắt
trong vườn Cây Dầu, trước một đám đông lính tráng hằm hằm sát khí, Người nói với họ:
“Vậy nếu các anh tìm tôi, thì hãy để cho những người này đi”. Tác giả Tin mừng còn thêm
lời chú giải: ‘Thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói: ‘Những người Cha đã ban cho con,
con không để mất một ai’ (Ga 18, 8-9). Đây chính là nét đẹp của một mục tử đích thực. Cái
chết của Chúa Giêsu đã quy tụ muôn dân. Đó cũng là điều Thượng tế Caipha đã nói. Dưới
cái nhìn của tác giả Gioan, câu nói của thày Thượng tế mang tính tiên tri (x.Ga 11,51). Qua
cái chết của Người, Thiên Chúa sẽ quy tụ mọi con cái tản mác khắp nơi về một mối. Điều ấy
đã được thực hiện ngày hôm nay, khi Tin Mừng Phục sinh được loan báo cho toàn thế giới.
Cây thập giá như cánh tay dang rộng ôm lấy vũ trụ, nơi đó con mọi người thuộc mọi sắc tộc
khác nhau. Chúa Giêsu là Mục tử. Những ai tin Chúa sẽ trở nên con chiên trong đàn chiên
của Người. Ngay từ thuở ban đầu, các tông đồ nghĩ rằng chỉ có người Do Thái mới có thể
trở lại làm Kitô hữu. Với thời gian, các ông hiểu rằng Tin Mừng Phục sinh không chỉ dành
cho dân tuyển lựa, vì Đức Giêsu là ánh sáng muôn dân, và ơn cứu độ nhờ cuộc khổ nạn và
phục sinh của Người được ban cho mọi dân tộc. Mặc dù các tông đồ gặp nhiều chống đối từ
phía người Do Thái, các ông vẫn vững một niềm tin, mạnh dạn can đảm rao giảng Đức Giêsu
Phục sinh, nhờ vậy mà cộng đoàn những người tin Chúa phát triển nhanh chóng. Chính sự
ngăn cản của người Do Thái đã gợi hứng cho các Tông đồ vượt ra ngoài ranh giới Do Thái
và đến với dân ngoại. Hai ông Phêrô và Barnaba khẳng định: “Anh em phải là những người
đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình
không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại”. Khi so
sánh cộng đoàn Giáo Hội với đàn chiên, Chúa Giêsu mong muốn quy tụ chúng ta trong tình
hiệp nhất. Người cũng muốn chúng ta lắng nghe giáo huấn của Người. Giáo huấn của Người
đem cho chúng ta hạnh phúc, như mục tử dẫn đưa đàn chiên tới đồng cỏ xanh, suốt mát lành.
Người cũng là Đường, là Sự thật và là Sự sống đem lại hạnh phúc đời này và đời sau cho
những ai tin vào Người.
Trong cuộc hành trình đức tin, những người đã không thấy mà tin và ngay cả những người
đã thấy và đã tin vẫn luôn gặp những trở ngại, nghi ngờ, lo lắng, bất an. Các môn đệ, sau
cuộc “bức tử” của Thầy Giêsu, họ đã hoang mang, lo lắng, sợ sệt, bất an: số phận của họ rồi
sẽ ra sao? Ai sẽ là người hướng dẫn để tiếp tục công việc của Thầy?... Tụ lại với nhau, nhưng
cửa đóng then cài. Và những người đã không thấy mà tin thì sao? Đức tin của chúng ta ở
mức độ nào? Chúng ta tin, nhưng đã sống và chết vì đức tin như thế nào? Đức tin chưa đủ
mạnh, chưa quyết liệt, chưa xác tín..thì luôn gặp những bất an. Thử thách, gian nan, khổ cực
là thước đo đức tin, là những bất an trong tâm hồn. Hiểu được tâm trạng lo lắng, sợ sệt, bất
an của các môn đệ, nên qua hai lần hiện ra với các ông sau khi sống lại, lời trấn an đầu tiên
mà Chúa gửi đến các ông là: “Bình an cho các con” và Ngài hứa sẽ sai Thánh Thần xuống
để cùng đồng hành với họ. Như thế là họ sẽ được bình an, được an tâm để lên đường tiếp tục
công việc của Thầy, không còn phải lo lắng, hoang mang. Và cũng hiểu được tâm trạng bất
an của chúng ta ngày nay, Chúa cũng đã chúc bình an và hứa với chúng ta rằng: “Thầy sẽ
xin Cha Thầy, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác để Ngài ở với các con
luôn mãi”. (Ga. 14,15). Cũng như các môn đệ họp nhau vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa
đã hiện ra và chúc bình an cho họ, ngày Chúa nhật họp nhau tham dự Thánh Lễ, chúng ta
cũng đón nhận bình an của Thiên Chúa và chúc cho nhau bình an của Ngài để rồi lại ra đi
trong bình an của Ngài đến với anh em. Bình an ấy là kết qủa của đức tin. Chúng ta là những
người “đã không thấy mà tin”, và đã được Chúa chúc phúc; vì, như Thánh Gioan Tồng đồ
đã viết trong thư thứ nhất của ngài: “Ai tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, thì kẻ ấy sinh bởi
Thiên Chúa, và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu mến kẻ sinh ra bởi Đấng ấy. Cứ
dấu này chúng ta nhận biết rằng chúng ta yêu mến con cái thiên Chúa, là khi chúng ta yêu
mến Thiên Chúa và thực hành các giới răn Người..., và giới răn Người không nặng nề. Vì
những gì sinh bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian, và đây là cuộc thắng trận thế gian,
là chính đức tin của chúng ta. Ai là người chiến thắng thế gian nếu không phải là người tin
rằng Chúa Giêsu là Con Chiên Chúa? (1Ga. 5,1-6) Đức tin đem lại cho chúng ta bình an của
Thiên Chúa. Không những chúng ta phải tuyên xưng đức tin mà còn phải sống đức tin: “Một
thân xác không hơi thở là một xác chết; cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin
chết.” (Gc. 2,26)
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng. Mở đầu
phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự
ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục Sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong
bóng tối sự chết. Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô
Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục Sinh là sự
sống mới đã chiến thắng sự chết. Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình.
Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái
chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta. Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự
sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta
còn thuộc về bóng tối. Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu
tối đen không có đường thoát ra. Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong
cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên. Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ
làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà
dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm
ngập trong nỗi hận thù dai dẳng. Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta
không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ. Tất cả những bóng tối đó đang
khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh
sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta. Để ánh sáng Phục
Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong
tâm hồn. Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi
chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho
tội lỗi, để ta sống một đời sống mới. Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được
ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng. Lạy Đức
Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ,
để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.
Trong thời đại hôm nay, nền kinh tế phát triển kéo theo mọi sự thay đổi. Con người sống
không dựa vào giá trị chân lý nhưng dựa vào sự hơn thua; từ đó, sinh ra lòng ghen tỵ. Người
lớn thách thức nhau về công việc, khả năng, sự thành công. Sinh viên thách thức nhau về
hiểu biết, gia thế... Điều này khiến cho cuộc sống con người luôn ngột ngạt. Chúa Giêsu
cũng là nạn nhân của lối sống này. Ngài đã chịu nhiều thách thức bởi nhóm Pharisêu, kinh
sư và các thượng tế. Lời Chúa trong Tin Mừng Gioan cho chúng ta thấy điều này. Nhóm
kinh sư và Pharisêu đã dẫn người phụ nữ bị bắt quả tang đang ngoại tình đến đặt ở giữa Chúa
Giêsu và họ. Họ đưa luật Môsê và nói phải ném đá hạng đàn bà này (x. Ga 8,5). Họ làm vậy
là để đặt cái bẫy tìm cớ hại Chúa Giêsu. Nếu Chúa đồng ý xử người phụ nữ phạm tội này
theo lề luật Môsê là ném đá thì trái với những lời tình thương hằng ngày Ngài rao giảng. Nếu
Ngài bênh vực người đàn bà vì Ngài muốn tỏ lòng nhân từ thì Ngài sẽ vi phạm luật Môsê.
Đó là cái bẫy họ giăng ra để dồn Chúa Giêsu vào đường cùng. Bởi ý đồ ấy, hàng ngàn con
mắt đổ dồn vào Chúa Giêsu với câu hỏi dồn dập liên tục. Trước những câu hỏi ấy, Chúa
Giêsu nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7). Câu hỏi
của Chúa Giêsu bắt buộc họ phải tự trả lời và tự rút lui bởi vì không một ai là không có tội.
Chúa Giêsu không nóng giận, không xua đuổi, mà chỉ trả lời trong tư thế cúi xuống lấy ngón
tay viết trên đất. Câu hỏi của Ngài vừa cho nhóm Pharisêu, kinh sư nhìn lại tội mình cũng
vừa làm cho người đàn bà nhận thấy tội mình. Cũng khi nhận ra tội mình, người phụ nữ được
Chúa Giêsu tha thứ bên ngoài và bên trong tâm hồn với lời khuyên: “Tôi cũng vậy, tôi không
lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Hình ảnh người
phụ nữ ngoại tình đã mặc khải tình yêu và lòng bao dung của Thiên Chúa dành cho con
người. Thánh Augustinô đã nói: “Cuối cùng chỉ còn lại hai nhân vật, người đàn bà và Chúa
Giêsu. Một bên là khốn cùng và một bên là lân tuất; và lòng lân tuất đã thắng thế trong ngày
đó”. Lòng thương xót của Chúa Giêsu đã xóa sạch mọi tội lỗi cho chị. Trong chúng ta, không
ai là không có tội. Với lời kêu gọi của Chúa: “Trở về đi hỡi những đứa con phản nghịch” (Gr
3,14a), chúng ta hãy trở về với tình yêu Chúa qua bí tích hòa giải. Nhờ đó, chúng ta bắt đầu
lại cuộc sống mới trong ngày Chúa Phục Sinh. Lạy Chúa, tội lỗi làm con xa lìa Chúa, xin
cho chúng con nhận ra tội mình mà từ bỏ việc kết án người khác, để bước vào cuộc sống mới
cùng với Chúa Giêsu Phục Sinh. Amen.
Lạy Cha là Thiên Chúa tình yêu!
dù con đã bao lần sa lạc và lầm lỡ,
nhưng Cha vẫn luôn nâng đỡ thứ tha,
con cảm thấy bước chân Cha vội vã,
khi ra đón đứa con sa ngã trở về.
Hôm nay Đức Giêsu cũng mời gọi hết mọi người hãy sám hối, kể cả người mắc tội nhẹ. Ngài
nói: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người
Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối
thì các ông sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13, 2-3). Sau đó, Ngài cũng dùng dụ ngôn cây vả để truyền
cho chúng ta biết rằng: Con người sống phải ra hoa kết trái bằng chính đời sống của mình, phải
có sự trở về. Người chủ đến thăm vườn, thấy cây vả không kết trái, ông nói: “Anh coi, đã ba năm
nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt đi, để làm gì cho hại đất?” (Lc 13,7).
Lời của ông có vẻ lạnh lung, không gắn bó với những thành quả công sức mình và mọi người thợ
đã bỏ ra để vun trồng, chăm sóc. Nhưng khi xét lại theo chuyên ngành thì lời ông nói cũng có lý
vì để lại một cây không có trái thì chỉ hại đất, tốn phân, tốn công. Người thợ đã can thiệp, nài nỉ:
“Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May
ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13, 8-9). Và ông chủ vườn đã để cây
vả lại, điều này chứng tỏ lòng thương xót và kiên nhẫn của Thiên Chúa được biểu lộ nơi hình ảnh
ông chủ vườn. Ông vẫn chờ đợi để cây vả ra trái. Với phép ẩn dụ, Đức Giêsu là người thợ, cây
vả là chúng ta. Đức Giêsu luôn chờ đợi sự trở lại của những tâm hồn khiếm khuyết, tâm hồn đang
thất vọng, khô khan và những tâm hồn đang mang ách nặng nề của thế gian. Bởi vậy, Ngài không
ngừng cuốc xới, nhổ cỏ và bón phân cho ta qua Lời Chúa, lời giảng dạy và nhất là chính con
người của Ngài nơi bí tích Thánh Thể. Cây muốn ra trái, trước hết phải được chăm sóc, vun xới,
làm sạch cỏ dại, cây cỏ dại bên cạnh cây vả đang chiếm đất, hay cỏ dại đang leo lên thân cây.
Tuy cỏ dại nhỏ bé nhưng là tác hại gây cho sức sống của cây, khiến cây không thể ra hoa kết trái.
Có những cây ở trong tình trạng an toàn, lá xanh mơn mởn nhưng vẫn không sinh trái nên phải
chặt nó đi. Thế nên, việc sám hối không dừng lại ở sự trở về hay chỉ sửa chữa những tội lỗi của
mình, nhưng là tô điểm cho mình bằng những hành động yêu thương, chia sẻ với mọi người xung
quanh. Đó là những hành động bắt đầu lại cuộc sống mới, cuộc sống yêu thương. Chúa không
đến để nhìn một cái cây được quét trơn bóng bởi những vẻ đẹp thế gian, Ngài đến để tìm hoa quả
chính là lối sống tốt đẹp với Thiên Chúa và tha nhân. Mùa chay, mùa hối thúc chúng ta khiêm
nhường thú nhận tội lỗi đã phạm mà ăn năn trở về với Chúa. Trở về để hưởng sự tha thứ. Con
tim trở về là con tim đã nhổ bỏ những cỏ dại để được chăm sóc và sinh hoa kết trái. Lạy Chúa,
Chúa hằng kiên nhẫn chờ đợi chúng con trở về. Xin cho chúng con đang trên đường tội lỗi biết
dừng lại cảm nghiệm tình yêu Chúa, nghe được tiếng thổn thức của Chúa gọi mà trở về nơi suối
nguồn yêu thương của Chúa. Amen.
Qua biến cố biến hình, Chúa muốn củng cố niềm tin của các môn đệ và qua các môn đệ,
Người muốn cho mọi người chúng ta thấy trước phần vinh quang của Người sau phục sinh.
Cũng có nghĩa là Chúa muốn cho chúng ta biết rằng cuộc thương khó và khổ nạn mà Người
sắp chịu không phải là tận cùng, là hết, nhưng chính là bước đường dẫn tới vinh quang. Như
vậy, Chúa biến hình để cho mọi người chúng ta thấy thân xác vinh hiển của Chúa. Chính
Chúa Giê-su cũng đã tuyên bố rõ rệt điều đó trong Tin mừng thánh Mát-thêu: “Bấy giờ kẻ
lành sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước của Cha mình.” (Mt. 13, 43) Vì thế, sự kiện biến
hình của Chúa Giê-su cho chúng ta hiểu được ý nghĩa và giá trị đích thực của người Ki-tô
hữu là phải qua những sự hy sinh và đau khổ vì đức tin, vì Tin mừng và vì Chúa, thì mới
được thông phần vinh quang của Chúa. Chúng ta phải hướng cuộc sống trần gian về sự vinh
quang Nước Trời. Vì vậy, sống sự biến hình là một đòi hỏi hằng ngày của người Kitô hữu.
Nói cách khác, cuộc sống Kitô hữu của chúng ta phải không ngừng biến đổi để được trở nên
đồng hình, đồng dạng với Chúa Kitô hơn. Đây cũng là điều thánh Phaolô dạy chúng ta trong
bài đọc 2, ngài nói: “Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong
đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ
của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người.” Thánh Phao-lô cũng rất đau
buồn khi nhận thấy có những Ki-tô hữu sống thù nghịch với thập giá. Vì thế thánh Phao-lô
khuyên chúng ta hãy góp phần vào sự biến thân xác của mình bằng cách khử trừ tội lỗi, sửa
đổi lại những thói hư tật xấu, thay đổi cuộc sống lầm lạc, biết hãm mình, hy sinh và chịu
thiệt thòi, đau khổ để trong ngày sau hết chúng ta sẽ được mặc lấy ánh vinh quang phục sinh
của Chúa Ki-tô. Sự kiện Chúa biến hình còn dạy chúng ta phải lắng nghe và vâng lời Chúa.
Thiên Chúa muốn mạc khải, nói hay dạy điều gì cho chúng ta thì Người nói và dạy qua Chúa
Giê-su. Lời Chúa là sự sống và là ánh sáng soi đường dẫn chúng ta đi. Nếu chúng ta muốn
có ơn Chúa, muốn sống trong an bình, vui mừng và hạnh phúc đời này, và hưởng vinh quang
đời sau thì chúng ta phải lắng nghe và sống lời Chúa dạy. Xin Chúa giúp chúng ta sống thời
điểm mùa chay này can đảm sống lời Chúa dạy, để có sức mạnh chiến đấu và chiến thắng
tội lỗi và thói hư nết xấu, biết canh tân và biến đổi đời sống, trở nên tốt đẹp, thánh thiện hơn,
cũng như để sống trong bình an, vui mừng, hạnh phúc đời này và hưởng vinh quang của
Chúa đời sau.
Làm người ở đời là chấp nhận thân phận cám dỗ. Con người vừa mang trong mình khát vọng vươn tới Tuyệt Đối, vừa thấy mình luôn bị một mãnh lực kéo trì, nên đời người lúc nào cũng phải chiến đấu giằng co, chỉ một chút lơi lỏng yếu mềm là sa ngã. Con người cao cả khi thắng được cám dỗ trong ngoài. Lúc buông theo cái tôi dễ dãi tầm thường, tôi chẳng là tôi. Chỉ khi tôi vượt qua tôi, tôi mới thật là mình. Tôi chỉ là tôi khi tôi vươn tới Chân, Thiện, Mỹ. Trong mùa Chay, ta hãy để Thánh Thần dẫn vào hoang địa. Hãy cùng với Đức Giêsu sống trong cô tịch, cầu nguyện và ăn chay, để có khả năng nhận ra các cơn cám dỗ quen thuộc. Biết mình bị cám dỗ thật là một ơn, vì ma quỷ chẳng phải là một con vật có đuôi lộ liễu. Những cám dỗ của Đức Giêsu cũng là của tôi hôm nay. Cám dỗ đầu tiên đánh thẳng vào điểm yếu của Ngài. Sau một thời gian dài nhịn ăn, Ngài thấy đói. Cái đói làm tê liệt, và đụng đến bản năng sinh tồn. Điều duy nhất cần đối với người đói là tấm bánh. Đức Giêsu đã thắng được cơn cám dỗ này. Ngài không phủ nhận sự cần thiết của vật chất, nhưng con người không chỉ sống nhờ cơm bánh. Lợi nhuận trong kinh tế là điều quan trọng, nhưng không được quên các giá trị văn hoá, luân lý, tôn giáo… Lắm khi cái đói vật chất vẫn chi phối chúng ta. Người ta dễ hiểu sai câu: “Có thực mới vực được đạo.” Chúng ta vẫn bị cồn cào bởi những thèm thuồng: chính đáng và không chính đáng, cá nhân và tập thể, nhưng đừng để mình thoả mãn cơn đói bằng mọi giá. Cám dỗ thứ hai là một cám dỗ thô bạo và hấp dẫn: bái lạy ma quỷ để được quyền lực và vinh quang. Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão này. Bao đế quốc, bao nhà độc tài đã trôi đi trong dòng lịch sử. Đức Giêsu chẳng muốn nhận quyền từ ai khác ngoài Cha. Chỉ Cha mới là Đấng duy nhất để Ngài thờ phụng. Cơn cám dỗ thứ ba có vẻ đạo đức, kỳ thực lại là dấu hiệu của sự thiếu lòng tin. Tôi đưa mình vào tình huống hiểm nghèo, để bắt Chúa hành động. Nhảy xuống từ nóc Đền Thờ mà không chết, quả là ngoạn mục! Chúng ta vẫn thích Chúa làm chuyện ngoạn mục cho đời ta. Chúng ta không thích sống trong lòng tin êm ả, như đứa con biết rõ Cha thương mình, không đòi kiểm chứng.
Tiền bạc, của cải, sắc đẹp, khoái lạc, bằng cấp, tự do, quyền lực, uy tín, danh dự, chủng tộc, khoa học, kỹ thuật: tất cả những giá trị trên đều đáng quý. Nhưng nếu tôi tôn chúng lên hàng Tuyệt Đối viết hoa, và thờ chúng như một ngẫu tượng, thì tôi và thế giới sẽ như kim tự tháp lật ngược. Ước gì Chúa giúp tôi tự cởi trói mình mỗi ngày, để tôi càng lúc càng tự do đến gần Đấng Tuyệt Đối.
Có nhiều cách để nhận biết sự thật về một người. Chúng ta có thể bị hấp dẫn bởi những
lời giảng hùng hồn. Chúng ta cũng có thể bị đánh lừa bởi thái độ khôn khéo giả tạo. Đức
Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn để nhận ra con người thật: “Xem quả thì biết cây” (c.
44). Quả ở đây là đời sống thực sự của người đó, là những việc họ làm. Nếu nhìn kỹ
công việc của một người, chúng ta có cơ may biết họ là ai. Đức Giêsu nói lên một luật
tự nhiên của cây cỏ. Cây tốt sẽ sinh trái tốt, cây bị sâu sẽ sinh ra trái không ngon. Người
công chính được nhận biết qua đời sống tốt lành của họ, qua những thử thách họ đã vượt
qua, qua những hy sinh họ dâng hiến. Người bất chính sẽ lộ ra qua đời sống xấu xa. Đời
sống và hành động của một người phản ánh con người thật của họ. Bụi gai không sinh
được trái vả, bụi rậm không cho được trái nho. Bụi gai và bụi rậm chẳng thể nào sinh
hoa trái tốt đẹp. Đời sống là tiêu chuẩn để nhận ra người môn đệ thật của Đức Giêsu.
Không phải chỉ là tuyên xưng đức tin vào Thầy bằng cách kêu lên: “Lạy Chúa! lạy
Chúa!” Vấn đề là làm điều Thầy dạy (c. 46). Đức Giêsu đặt câu hỏi tại sao đầy ngạc
nhiên với các môn đệ: Tại sao tin vào Thầy mà lại không sống điều Thầy truyền dạy?
Kitô hữu chân chính là người đến với Chúa Giêsu, lắng nghe những lời của Ngài và thi
hành những lời ấy (c. 47). Nghe thôi thì chưa đủ. Lời của Chúa Giêsu phải thấm nhuần
vào đời sống của ta, chi phối mọi hành động, quyết định và lựa chọn. Đức Giêsu kết thúc
Bài Giảng của mình bằng dụ ngôn về hai người xây nhà. Nhiều người đã nghe Bài Giảng
này, đã cảm thấy hay, nhưng có bao nhiêu người sẽ thực hành những giáo huấn trong
đó? Người thực hành Lời Chúa được ví như người xây nhà có nền vững chắc. Còn người
không thực hành thì giống như người làm nhà không nền. Bề ngoài có vẻ hai căn nhà
không khác nhau. Chỉ khi nước lụt dâng lên, và dòng nước ùa vào nhà, mới thấy sự khác
biệt. Một căn đứng vững vì có nền tử tế, căn kia bị sụp đổ tan tành. Chúng ta thích xây
nhà cao, nhưng lại ít để ý tới nền móng. Chúng ta đã được nghe quá nhiều đoạn Lời
Chúa, nhưng vẫn chỉ dừng lại ở việc suy niệm, cầu nguyện. Lời Chúa chưa thực sự bám
rễ trong hành động và cuộc sống, vì điều đó đòi một sự trả giá mà chúng ta muốn quay
lưng. Chính vì thế căn nhà tâm linh của chúng ta vẫn không vững. Xin Chúa cho chúng
ta can đảm để làm lại nền cho căn nhà đời ta.
Khi đọc lời nhắn nhủ trên đây của Đức Giêsu, chúng ta thường thấy đó là chuyện không thể làm nổi, hay nếu làm được, ắt sẽ sinh ra những hậu quả tồi tệ. Chắc chắn Đức Giêsu không dạy ta bao che cho kẻ ác, hay đòi hủy bỏ luật hình sự để phạt các phạm nhân. Ngài không cổ vũ việc ăn xin khi nói: “Ai xin, con hãy cho.” Ngài cũng không biến chúng ta thành người bạc nhược. Bài Tin Mừng hôm nay là một viên ngọc, vì nó cho thấy nét đặc trưng của người Kitô hữu. Nó vén mở một lý tưởng mà ta phải vươn tới. Chúng ta cần vượt lên trên nghĩa đen của mặt chữ để cảm được tinh thần mà Chúa muốn ta sống. Không sống lời Ngài, ta vẫn là kẻ đứng ngoài Kitô giáo. “Hãy yêu kẻ thù”: câu này được nhắc lại hai lần. Theo bài Tin Mừng này thì kẻ thù của tôi là ai? Đó là kẻ ghét tôi, kẻ nguyền rủa tôi và vu khống. Đó là kẻ tát vào mặt tôi và đoạt áo ngoài của tôi. Như thế kẻ thù tôi chẳng đâu xa, ngày ngày tôi vẫn gặp. Họ là những người hay làm phiền và lợi dụng tôi, là những kẻ xúc phạm đến danh dự và quyền lợi của tôi. Họ là những người tự nhiên tôi không ưa, hay không ưa tôi. Đức Giêsu không đòi tôi yêu kẻ thù như yêu người thân: về mặt tình cảm, chuyện đó khó thực hiện. Nhưng Ngài mời tôi yêu bằng hành động. Yêu là làm ơn, là chúc lành, là cho vay. Yêu là cầu nguyện điều lành cho kẻ thù (cc. 27-28). Khi làm điều tốt cho kẻ thù, tôi được giải phóng khỏi cái tôi ăn miếng trả miếng, và nhờ đó chính kẻ thù tôi cũng có thể được giải phóng khỏi cái tôi ích kỷ của họ. Khi yêu kẻ thù bằng những hành động tử tế, tôi không còn coi họ là kẻ thù của tôi nữa. Dần dần, tình cảm của tôi đối với họ cũng biến đổi. Cần can đảm biết bao khi chào hỏi, bắt tay một người làm tôi vô cùng đau khổ. Đó chẳng phải là một hành động giả hình, nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên. Đó chẳng phải là một hành vi của kẻ yếu, nhưng là dấu hiệu của tính quả cảm anh hùng. Kitô hữu được mời gọi vượt lên trên cái tự nhiên. Suy nghĩ tự nhiên, tình cảm tự nhiên, phản ứng tự nhiên… Phải ra khỏi cái tự nhiên, thường tình, mới vào được thế giới siêu nhiên, thế giới của những người con, sống nhân hậu như Cha. Sống nhân hậu như Cha là trở nên hoàn thiện. Thế giới văn minh không chỉ nhờ tiến bộ của khoa học, nhưng chủ yếu nhờ những chiến thắng trên lòng ích kỷ của từng người cũng như của mọi tập thể lớn nhỏ. Trái đất chỉ tồn tại nhờ tha thứ yêu thương. Kitô giáo chỉ sống còn nhờ yêu thương tha thứ.
Khi đọc lời nhắn nhủ trên đây của Đức Giêsu, chúng ta thường thấy đó là chuyện không thể làm nổi, hay nếu làm được, ắt sẽ sinh ra những hậu quả tồi tệ. Chắc chắn Đức Giêsu không dạy ta bao che cho kẻ ác, hay đòi hủy bỏ luật hình sự để phạt các phạm nhân. Ngài không cổ vũ việc ăn xin khi nói: “Ai xin, con hãy cho.” Ngài cũng không biến chúng ta thành người bạc nhược. Bài Tin Mừng hôm nay là một viên ngọc, vì nó cho thấy nét đặc trưng của người Kitô hữu. Nó vén mở một lý tưởng mà ta phải vươn tới. Chúng ta cần vượt lên trên nghĩa đen của mặt chữ để cảm được tinh thần mà Chúa muốn ta sống. Không sống lời Ngài, ta vẫn là kẻ đứng ngoài Kitô giáo. “Hãy yêu kẻ thù”: câu này được nhắc lại hai lần. Theo bài Tin Mừng này thì kẻ thù của tôi là ai? Đó là kẻ ghét tôi, kẻ nguyền rủa tôi và vu khống. Đó là kẻ tát vào mặt tôi và đoạt áo ngoài của tôi. Như thế kẻ thù tôi chẳng đâu xa, ngày ngày tôi vẫn gặp. Họ là những người hay làm phiền và lợi dụng tôi, là những kẻ xúc phạm đến danh dự và quyền lợi của tôi. Họ là những người tự nhiên tôi không ưa, hay không ưa tôi. Đức Giêsu không đòi tôi yêu kẻ thù như yêu người thân: về mặt tình cảm, chuyện đó khó thực hiện. Nhưng Ngài mời tôi yêu bằng hành động. Yêu là làm ơn, là chúc lành, là cho vay. Yêu là cầu nguyện điều lành cho kẻ thù (cc. 27-28). Khi làm điều tốt cho kẻ thù, tôi được giải phóng khỏi cái tôi ăn miếng trả miếng, và nhờ đó chính kẻ thù tôi cũng có thể được giải phóng khỏi cái tôi ích kỷ của họ. Khi yêu kẻ thù bằng những hành động tử tế, tôi không còn coi họ là kẻ thù của tôi nữa. Dần dần, tình cảm của tôi đối với họ cũng biến đổi. Cần can đảm biết bao khi chào hỏi, bắt tay một người làm tôi vô cùng đau khổ. Đó chẳng phải là một hành động giả hình, nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên. Đó chẳng phải là một hành vi của kẻ yếu, nhưng là dấu hiệu của tính quả cảm anh hùng. Kitô hữu được mời gọi vượt lên trên cái tự nhiên. Suy nghĩ tự nhiên, tình cảm tự nhiên, phản ứng tự nhiên… Phải ra khỏi cái tự nhiên, thường tình, mới vào được thế giới siêu nhiên, thế giới của những người con, sống nhân hậu như Cha. Sống nhân hậu như Cha là trở nên hoàn thiện. Thế giới văn minh không chỉ nhờ tiến bộ của khoa học, nhưng chủ yếu nhờ những chiến thắng trên lòng ích kỷ của từng người cũng như của mọi tập thể lớn nhỏ. Trái đất chỉ tồn tại nhờ tha thứ yêu thương. Kitô giáo chỉ sống còn nhờ yêu thương tha thứ.
Đức Giêsu được mọi người biết đến là một người nghèo. Nghèo từ khi sinh ra đến lúc từ giã thế gian để về với Chúa Cha. Chính Đức Giêsu đã ví cuộc đời của mình như: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”. Lúc sinh thời, nhất là trong thời gian loan báo Tin Mừng, từ lối sống đến hành động, Ngài luôn quan tâm đến tận cùng kiếp sống con người, nhất là những người khốn khó, bệnh hoạn, tật nguyền. Nên Đức Giêsu không ngần ngại để sống với những người nghèo hèn, cảm thông cho những người tội lỗi và ăn uống với họ, đồng thời, luôn coi họ như những người bạn, sẵn sàng đứng về phía họ để bênh đỡ, chở che. Tinh thần và lối sống đó hôm nay được Đức Giêsu chính thức chúc phúc, và qua đó như một lời mời gọi mọi người đi theo con đường đó để được hạnh phúc: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi”. Phải chăng Đức Giêsu là người cổ hủ, lỗi thời khi cổ súy cho cái nghèo? Hơn nữa, Ngài lại còn mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ cũng phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực? Thưa! Hẳn là không! Qua mối phúc này, Đức Giêsu muốn cho con người được hạnh phúc hoàn toàn, khi không bị chi phối bởi lòng ham muốn tiền bạc, vì nếu mê mẩn với chúng thì sẽ trở thành nô lệ cho tiền bạc. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Đức Giêsu và quy chiếu cuộc đời của ta với Ngài, để vui mừng khi được sống tinh thần nghèo khó như Ngài. Một cách cụ thể, đó là sống hết mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân, nhất là những người bần cùng trong xã hội. Cần phải xác định thật rõ rằng: gia tài đích thực của chúng ta là Thiên Chúa. Giá trị lớn lao nhất là sống cho Thiên Chúa qua cung cách phục vụ tha nhân. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Chúa để mặc lấy tâm tình nghèo khó như Ngài, ngõ hầu chúng con được tự do để dấn thân phục vụ người nghèo cách vô vị lợi như Chúa khi xưa. Amen.
Thế rồi mẻ lưới được kéo lên đầy cá, ngoài sức tưởng tượng, khiến Simon và các bạn kinh
ngạc. Ông thấy xấu hổ, đến sấp mặt dưới chân Ðức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa
con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Đó cũng từng là kinh nghiệm của Isaia khi được kêu gọi: “Khốn
cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi dơ bẩn” (Is 6, 4-6). Nhưng sau khi được than hồng là lửa
tình thương Chúa thanh tẩy, ông đã mau mắn xin vâng, ra đi làm ngôn sứ cho Chúa: “Lạy
Chúa, xin hãy sai con”. Ở đây Chúa cũng trấn an Simon: “Đừng sợ hãi, từ đây các con sẽ là
kẻ chinh phục người ta” (Lc 5,10). Dù Simon yếu đuối và lỗi tội, Chúa vẫn tín nhiệm và
chọn gọi ông. Tình thương Chúa đã xoay hướng cuộc đời ông hoàn toàn. Ngỡ ngàng trước
quyền năng và tình thương của Chúa, Simon và các bạn đã “bỏ mọi sự mà đi theo Ngài”
(Lc 5, 11). Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn hiện diện và xin chúng ta tiếp nhận Ngài trên chiếc
thuyền cuộc đời mình, để cùng với Ngài ra chỗ nước sâu, nơi mà Ngài sẽ cho ta thấy điều
bất ngờ. Ngài mời chúng ta ra khơi, đến với mọi người để chuyển thông cho họ lòng
thương xót của Thiên Chúa. Tính cách này mang lại ý nghĩa mới cho sự hiện diện của
chúng ta, vì một sự hiện diện thường tình có nguy cơ trở nên vật vờ, nín lặng. Theo Chúa
không khó, nhưng khó là ra khỏi mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng nếu còn giữ một lối
sống xa xưa, vẫn còn bám lấy những mộng ước riêng tư, thì ta vẫn còn ở khởi điểm, chưa
thật sự lên đường. Ngoài ra, “lưới cá” có thể dựa vào sức lực và tâm trí của mình, nhưng
“lưới người” còn đòi phải cậy dựa hoàn toàn vào Chúa. Bao lâu chưa nhận ra sự hèn kém
của bản thân, chưa cảm nghiệm được tình yêu và quyền năng Chúa, thì chưa có sự vâng
phục tuyệt đối, nên cũng chưa thể ra đi trong tự do và khó nghèo, để thành người môn đệ
đích thực. Cần để Chúa đào luyện mình trong mọi hoàn cảnh, qua từng giai đoạn, với từng
công việc, trong từng biến cố, ta mới thấy an vui và phấn khởi trên bước đường theo Chúa.
Thành công hay thất bại không quan trọng, đó chỉ là những đánh giá bên ngoài. Có khi thất
bại lại cần thiết cho ta trong công việc tông đồ. Điều quan trọng là bước theo Đức Giêsu
trên mọi nẻo đường, bất chấp khó khăn và cả những yếu đuối của mình, để Chúa làm nên
những điều kỳ diệu cho con người hôm nay.
Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu được Đức Maria và Thánh Giuse đem lên đền
thờ Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa. Tại nơi đây, qua lời của ông Simeon –
một người đạo đức và được đầy ơn Thánh Thần, Chúa Giêsu đã tỏ mình cho muôn dân
biết Người là Đấng cứu độ, là ánh sáng muôn dân. Tuy nhiên, chính Người lại trở nên
“duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hoặc đứng lên” (Lc 2, 33). Đã có lời tiên
tri Isaia loan báo từ xa xưa về Đấng Messia: “Người sẽ là một thánh điện, và một hòn
đá làm cho vấp, một tảng đá làm cho sẩy chân đối với hai nhà Israel, một dò lưới và
một cạm bẫy đối với người dân Giêrusalem. Nhiều người sẽ vì đó mà sẩy chân, té ngã,
nát tan, sẽ mắc bẫy và bị bắt” (Is 8, 14-15). Nhìn vào cuộc đời rao giảng của Đức Giêsu
và đặc biệt nơi cuộc khổ nạn của Người, những lời tiên báo của ông Simeon và của tiên
tri Isaia đã trở thành hiện thực: có nhiều người Israel tin Chúa nhưng một số đông đã
chống đối và muốn Người chết trên thập giá. Hình ảnh một Đấng Messia chịu đóng
đinh vẫn còn là một sự ô nhục đối với nhiều người do thái nhưng Thiên Chúa đã muốn
dùng sự điên rồ này để cứu những người tin (x. 1Cor 1, 21-23). Như thế, những người
Israel, trước Đức Giêsu Kitô, họ cần phải có quyết định cho chính mình. Người nào tin
và theo Chúa, sẽ được cứu độ; còn ai chống đối Người, sẽ vấp ngã. Giờ đây, dân Israel
sẽ được cứu không phải vì họ là dân riêng của Thiên Chúa mà bởi vì họ đã chọn Đức
Giêsu. Chỉ có ai chọn Người, Con Thiên Chúa, mới thực sự thuộc về dân Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang đặt mỗi người chúng ta đứng trước sự lựa chọn:
thuộc về Người hay không. Chúa “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6), nhưng
chúng ta chấp nhận hay từ chối Người, câu trả lời thuộc về sự tự do của mỗi chúng ta.
Mỗi chúng ta hãy cầu nguyện, suy tư để nhìn lại những gì Chúa đã thực hiện cho chúng
ta trong cuộc sống hiện tại, từ đó chúng ta có thể đưa ra quyết định cuối cùng cho chính
mình. Nguyện xin Chúa ban ơn và soi sáng cho lựa chọn quan trọng này của chúng ta.
Amen.
Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu được Đức Maria và Thánh Giuse đem lên đền thờ Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa. Tại nơi đây, qua lời của ông Simeon – một người đạo đức và được đầy ơn Thánh Thần, Chúa Giêsu đã tỏ mình cho muôn dân biết Người là Đấng cứu độ, là ánh sáng muôn dân. Tuy nhiên, chính Người lại trở nên “duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hoặc đứng lên” (Lc 2, 33). Đã có lời tiên tri Isaia loan báo từ xa xưa về Đấng Messia: “Người sẽ là một thánh điện, và một hòn đá làm cho vấp, một tảng đá làm cho sẩy chân đối với hai nhà Israel, một dò lưới và một cạm bẫy đối với người dân Giêrusalem. Nhiều người sẽ vì đó mà sẩy chân, té ngã, nát tan, sẽ mắc bẫy và bị bắt” (Is 8, 14-15). Nhìn vào cuộc đời rao giảng của Đức Giêsu và đặc biệt nơi cuộc khổ nạn của Người, những lời tiên báo của ông Simeon và của tiên tri Isaia đã trở thành hiện thực: có nhiều người Israel tin Chúa nhưng một số đông đã chống đối và muốn Người chết trên thập giá. Hình ảnh một Đấng Messia chịu đóng đinh vẫn còn là một sự ô nhục đối với nhiều người do thái nhưng Thiên Chúa đã muốn dùng sự điên rồ này để cứu những người tin (x. 1Cor 1, 21-23). Như thế, những người Israel, trước Đức Giêsu Kitô, họ cần phải có quyết định cho chính mình. Người nào tin và theo Chúa, sẽ được cứu độ; còn ai chống đối Người, sẽ vấp ngã. Giờ đây, dân Israel sẽ được cứu không phải vì họ là dân riêng của Thiên Chúa mà bởi vì họ đã chọn Đức Giêsu. Chỉ có ai chọn Người, Con Thiên Chúa, mới thực sự thuộc về dân Thiên Chúa. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang đặt mỗi người chúng ta đứng trước sự lựa chọn: thuộc về Người hay không. Chúa “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6), nhưng chúng ta chấp nhận hay từ chối Người, câu trả lời thuộc về sự tự do của mỗi chúng ta. Mỗi chúng ta hãy cầu nguyện, suy tư để nhìn lại những gì Chúa đã thực hiện cho chúng ta trong cuộc sống hiện tại, từ đó chúng ta có thể đưa ra quyết định cuối cùng cho chính mình. Nguyện xin Chúa ban ơn và soi sáng cho lựa chọn quan trọng này của chúng ta. Amen.
Tại Hội đường Nagiarét, sau khi đọc đoạn trích sách ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu tuyên bố: Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Những người đồng hương đã sửng sốt ngạc nhiên trước lời tuyên bố này, vì Chúa Giêsu khẳng định Người là Đấng được xức dầu và được Chúa Cha sai đến trần gian để loan báo Tin Mừng, băng bó những vết thương tinh thần cũng như thể xác của con người. Những việc Chúa làm đã chứng minh lời khẳng định đó. Các tác giả Phúc âm đều kể với chúng ta, Chúa Giêsu miệt mài lên đường loan báo Nước Trời và kêu gọi mọi người sám hối. Người chứng minh: những gì các ngôn sứ đã tiên báo về Người đã và đang được thực hiện. Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người tin Chúa được gọi là “Kitô hữu”. Kitô hữu là người được xức dầu. Nhờ được xức dầu mà chúng ta nên giống Chúa Giêsu. Lý tưởng của cuộc sống người tín hữu là nên giống Chúa Giêsu trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Càng nên giống Chúa Giêsu bao nhiêu, chúng ta càng thánh thiện bấy nhiêu. Nên giống Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi cộng tác với Người để lên đường loan Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn thương đau bất hạnh, tức là xoa dịu, đồng cảm và chia sẻ với anh chị em chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Xuân đang đến gần. Mỗi dịp tết, chúng ta có thói quen nhận lộc Lời Chúa. Việc rút thăm để nhận Lời Chúa không phải để thử vận may rủi như người lương dân vẫn làm vào dịp Tết. Đón nhận Lời Chúa vào ngày đầu năm để suy niệm và chuyên tâm thực hành Lời ấy trong suốt năm. Bởi lẽ “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta một mùa xuân an bình, thánh thiện và chuyên tâm thực thi thánh ý Ngài.
1. Không phải do bởi sự tín trung, hay bởi sáng kiến của dân Do Thái mà Thiên Chúa thiết lập giao ước Phu Thê với con người. Nhưng đây là do bởi tình yêu nhưng không, lòng quảng đại của Thiên Chúa cũng như từ ý định yêu thương của Người. Người muốn đến với chúng ta bằng một giao kết tình yêu hôn nhân, không phải để ràng buộc chúng ta trong bộ khung luật lệ, nhưng chính yếu là để yêu và được yêu nhiều hơn trong một bộ khung mới là tình yêu. Tôi cảm nghiệm điều gì trước mối tình của Thiên Chúa?
2. Đã có một thời trong Giáo hội, các ơn ban được xem như chỉ dành riêng cho một số người, một số phẩm trật nhất định. Đoạn trích thư Côrintô đã khẳng định cho chúng ta điều ngược lại. Tất cả mọi người họp thành một cộng đoàn, một thân thể, một Giáo hội là Hiền thê của Chúa. Vì thế mọi chi thể đều lãnh nhận được những ơn ban từ Thiên Chúa, tuy có khác nhau trong vai trò của từng người. Vậy với tôi, đâu là những ơn ban mà Thiên Chúa đã yêu thương dành cho tôi? Đâu là những ơn ban mà Thiên Chúa đã yêu thương dành cho những người anh chị em của tôi?
3. Nhờ rượu mới, nhờ sự hiện diện của Đức Maria, và nhất là nhờ Đức Giêsu, bữa tiệc cưới con người, từ sự u sầu vì hết rượu và có nguy cơ thiếu vắng niềm vui, giờ đã trở thành bữa tiệc đầy niềm vui hoan lạc. Vậy trong năm đồng hành với những gia đình gặp khó khăn, hình ảnh biểu trưng của tiệc cưới Cana có thể là một ý hướng mục vụ cho mỗi người chúng ta?
Khi Gioan đang làm phép rửa cho dân chúng để giúp họ sám hối và cầu xin ơn tha
tội. Chúa Giêsu đã hòa mình vào đám đông trong cùng dòng sông Giođan, với những
con người có tội để sám hối thay cho loài người đang cần sám hối để được tha thứ.
Thánh Ghê-gô-ri-ô, giám mục Na-di-en cho biết: “Có thể là Chúa muốn thánh hoá
kẻ sắp làm phép rửa cho Chúa, nhưng chắc chắn để chôn vùi trọn vẹn con người
Ađam cũ trong dòng nước. Thật vậy, trước khi thanh tẩy ta và để thanh tẩy ta, Chúa
thánh hoá sông Giođan; vì Người vừa là thần khí vừa là xác phàm, nên Người cũng
muốn nhờ Thần Khí và nước để đưa chúng ta vào đạo”. Nên dù Gioan làm phép rửa,
ông cũng chỉ là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể,
người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài
thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong
lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện.
Quả thật, Gioan biết rằng mình sẽ được thanh tẩy bằng cuộc tử đạo. (Trích bài giảng
của thánh -gô-ri-ô, giám mục Na-di-en). Thánh Phêrô Kim Ngôn giải thích rằng, khi
Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì: “Tôi tớ đóng vai chủ, con người đóng vai
Thiên Chúa, ông Gioan đóng vai Đức Kitô; ông đóng vai đó để lãnh ơn thứ tha chứ
không phải để ban phát”. Nên Gioan giảng: “Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước,
nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần” (Mc 1, 8). Đây là phép lạ vĩ
đại đã xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế chịu phép rửa; phép lạ này là khúc dạo đầu cho
những gì sẽ xảy ra. Đây không phải là Thiên Đàng khi xưa đóng lại vì tội của Ađam
nay mở ra, mà chính trời mở ra: “Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra,
thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình” (Mc 1,10). Đó là lý do tại
sao Chúa Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Hành trình Đức tin của người tín hữu chính là cuộc tìm kiếm và gặp gỡ với Chúa. Đây
là một hành trình lâu dài, liên lỉ và có nhiều chướng ngại. Để theo Chúa và trung tín
với Ngài, chúng ta luôn phải can đảm vượt qua những chướng ngại đó. Như những vận
động viên chuyên tâm khổ luyện để đạt được vòng nguyệt quế dành cho người chiến
thắng, người Kitô hữu phải luôn chiến đấu trong trận chiến thiêng liêng để thuộc trọn
về Chúa. Ông Gioan dùng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những cố gắng hoàn thiện
bản thân: lấp đầy lũng sâu, bạt thấp núi đồi, nắn thẳng quanh co uẩn khúc. Kinh
nghiệm cho thấy, người ta có thể dễ dàng chiến thắng trong trận chiến với kẻ thù,
nhưng lại ngã gục trước cám dỗ của cái tôi ích kỷ và đầy tham vọng. Cuộc chiến đấu
để thanh luyện chính mình là một cuộc chiến đấu dai dẳng, đòi hỏi nhiều cố gắng hy
sinh. Mùa Vọng vừa mời gọi chúng ta nhìn lại mình, vừa nhắc chúng ta hãy nhận ra sự
hiện diện của Thiên Chúa. Những cố gắng nỗ lực để hoàn thiện bản thân và thực thi
bác ái sẽ giúp chúng ta bạt núi kiêu ngạo, lấp thung lũng hèn nhát. Cuộc sống hôm nay
có nhiều cám dỗ, quá nhiều khuynh hướng khác nhau, lôi kéo chúng ta đi lạc đường.
Những bon chen bận rộn của cuộc đời dễ làm chúng ta đắp những quả đồi, hoặc khoét
sâu khoảng cách đối với anh chị em. Khi can đảm dẹp bỏ mọi chướng ngại trong tâm
hồn, chúng ta sẽ được “nhìn” thấy Chúa và vinh quang của Ngài. Lúc đó, Chúa sẽ là
tất cả của đời sống chúng ta, và chúng ta sẽ chỉ nhìn lên Ngài như định hướng tuyệt
hảo duy nhất của cuộc đời. Lời mời gọi bạt núi san đồi vẫn vang lên hằng năm. Tuy
vậy, nơi đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn, vẫn còn đó những khuyết điểm lỗi lầm.
Trong mối tương quan hằng ngày, người ta vẫn tiếp tục xây những bức tường chia rẽ,
vẫn đào những thung lũng hận thù và xây những núi đồi của kiêu ngạo. Lời Chúa
khích lệ chúng ta không nên thất vọng, vì chúng ta có nguồn trợ lực thiêng liêng đến từ
Đấng Tối cao. Chúa Giêsu đã từ bỏ mọi sự để hủy mình ra không, trở nên một trẻ thơ
nơi hang đá khó nghèo. Người đã trở nên nghèo để chúng ta được giàu có; Người đã
trở nên yếu ớt để chúng ta được mạnh mẽ; Người đã đón nhận thập giá để chúng ta
được vinh quang. Vì thế, ơn gọi của chúng ta là cố gắng “sống cho tinh tuyền, không
làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm, nhờ đó chúng ta mang
lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính”, như thánh Phaolô nhắn nhủ giáo dân
Philiphê (Bài đọc II).